Chúa Yêu Kẻ Cơ Hàn
CHÚA YÊU KẺ CƠ HÀN
Ngày qua ngày cuộc sống của người chăn chiên không có gì vui thú. Hàng ngày chúng tôi dẫn bầy chiên ra khỏi nhà từ lúc sương sớm đến khi mặt trời khuất sau lưng đồi, sau đó chúng tôi đưa chiên trở về chuồng. Có những lúc đồng cỏ gần nhà không còn, chúng tôi phải đưa bầy chiên đi xa hơn tìm đồng cỏ xanh tươi có đủ lương thực nuôi chiên mỗi ngày. Cuộc sống của người chăn chiên không có ngày nào được nghỉ ngơi rong chơi đây đó, ngày nào chúng tôi nghỉ ngơi là ngày ấy bầy chiên bị bỏ đói. Những hôm dẫn bầy chiên chưa đến kịp những vùng có mé nước bình tịnh, bóng cây xanh mát hay trên đường về vào thời tiết giá lạnh, chúng tôi đem bầy chiên trú ẩn vào những hang đá bên dưới các ngọn đồi thoai thoải trên đường.
Bạn bè chúng tôi không ăn chơi, nhưng tình thân chí cốt cùng hoàn cảnh cơ hàn, chăm lo cuộc sống. Nhà chúng tôi rất nghèo, trong miền sa mạc xứ Giu đê này chúng tôi đục đá từ đồi núi trơ trọi chung quanh. Nhà chúng tôi có hiên phía trước để dành cho gia súc, phía sau là phòng ăn và nơi ở của mọi thành viên trong nhà. Nóc nhà bằng phẳng làm bằng đá có các trụ và tường chống đỡ, nhà nào cũng có cầu thang đi lên mái dành cho những giờ phút yên tĩnh mỗi khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời hay ngắm sao trời về đêm. Chúng tôi làm nhà toàn bộ bằng đá, trần thấp tránh những cơn bão cát và những cửa mái vòm chịu lực trên hòn đá góc, nếu gỡ hòn đá này ra cả ngôi nhà sẽ sụp đổ. Nhà chúng tôi không sợ mưa giông hay gió bão vì đã xây nhà trên nền đá. Trong nhà không có gì ngoài vài chiếc đèn dầu Ô-liu thắp sáng và chăn nệm bằng lốt da dê hay da chiên để giữ ấm trong những đêm giá lạnh.
Cuộc sống đơn sơ mộc mạc của chúng tôi sống nhờ vào bầy chiên, lông chiên mỗi khi ra nhiều chúng tôi đem đi hớt sạch để chúng ra đợt lông khác, những lông chiên bán cho chỗ làm chăn mền, quần áo. Đổi lại chúng tôi mua bột mì để nướng bánh ăn, dầu ô-liu để chiên bánh hoặc thắp đèn, mật ong và các bánh trái vả, bánh nho khô dùng để đem theo ăn mỗi khi dẫn bầy chiên đi xa. Gia súc trong nhà còn có bầy dê nuôi lấy sữa để uống hay làm phô-mai để ăn và thịt dùng làm thức ăn những lúc cần thiết. Chiên là nguồn huê lợi chính nên chúng tôi không ăn thịt chiên, đôi khi chỉ dùng một con chiên đực dâng làm tế lễ cho Chúa. Sống đơn giản nhưng chúng tôi có sức mạnh không ai bằng, chúng tôi có thể đánh trả các loài thú dữ mỗi khi chúng muốn xông vào cướp chiên. Ngoài ra chúng tôi còn có niềm vui thơ mộng khi cùng với bầy chiên đến nơi thanh tịnh có cây xanh bóng mát, có đồng cỏ xanh tươi, có dòng suối trong vắt chảy ra từ khe núi.
Chúng tôi sống trong cảnh nghèo mà thanh liêm, gia đình chúng tôi bình an và hạnh phúc. Ngày ngày chúng tôi cùng các bạn hữu ngồi bên bầy chiên chăm chú đọc những thi thiên của Đa Vít sáng tác trong lúc chăn bầy giống như chúng tôi. Chúng tôi bàn bạc với nhau về một Đấng Cứu Thế ra đời mà trong các sách tiên tri có nói đến, lòng chúng tôi tin quả quyết đây là lời Đức Chúa Trời nên trước sau gì cũng phải ứng nghiệm. Các bạn chúng tôi có người cũng biết thổi sáo, có người biết làm thơ nên chúng tôi càng thấy yêu đời và vui sống. Những lúc chúng tôi dẫn bầy chiên đi qua các ghềnh dốc suối chúng tôi phải bồng từng con chiên đi qua, những lúc ấy lòng chúng tôi toát lên một niềm vui sung sướng khó tả vì đã làm một việc yêu thương cứu giúp cho bầy chiên của mình thoát khỏi nguy hiểm. Người nghèo như chúng tôi hể có cơ hội là luôn cứu giúp không kể lể công lao, những người không cùng nghề nghiệp với chúng tôi không bao giờ hiểu được niềm vui và hạnh phúc giống như chúng tôi.
Mọi người không ai sống trong cảnh cơ hàn mà hạnh phúc như chúng tôi. Đức Chúa Trời từ trên cao thấy rõ điều đó. Vào một đêm giá lạnh, trên đường đưa bầy chiên về chuồng, chúng tôi không thể về kịp trước khi trời tối vì đêm hôm ấy đường về nhà còn xa, như thường lệ chúng tôi ghé trú ẩn vào một hang đá bên đường ở ngoại ô làng Bết-lê-hem, dưới hang đá này không sâu lắm chúng tôi có thể nhìn lên cửa hang thấy các ngôi sao trên bầu trời chiếu lấp lánh. Đêm nay trời trong sáng tuyệt đẹp, không một áng mây bay qua bầu trời. Chúng tôi đốt lửa lên sưởi ấm cũng như lấy ánh sáng ngồi lại bên nhau hàn huyên chuyện vui buồn, tản mạn hồi lâu chúng tôi bắc qua câu chuyện Đấng Cứu Thế sẽ ra đời là câu chuyện vẫn luôn canh cánh bên lòng chúng tôi lâu nay.
Thình lình ngay cửa hang một ánh sáng chói lòa, phản xạ của tất cả chúng tôi là cuối sấp mặt xuống để tránh nhìn vào ánh sáng quá sức kinh hồn ấy. Trong lúc chúng tôi chưa biết hiện tượng này là gì bên tai chúng tôi đã nghe tiếng nói vang rền trong hang đá: “Đừng sợ chi; vì nầy, ta báo cho các ngươi một Tin Lành, sẽ làm một sự vui mừng lớn cho muôn dân; ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu thế, là Christ, là Chúa. Nầy là dấu cho các ngươi nhìn nhận Ngài: Các ngươi sẽ gặp một con trẻ bọc bằng khăn, nằm trong máng cỏ.” Ngay sau ánh sáng chói lòa và tiếng nói vang rần ấy chấm dứt, chúng tôi mới dám ngẩng mặt lên xem, vừa kịp nhận ra một thiên sứ trong ánh hào quang, liền lúc ấy thiên sứ biến mất. Nhìn xa hơn trên trời, chúng tôi thấy cả trời sáng rực, một đoàn rất đông thiên sứ bay lượn hát bài ca: “Sáng danh Chúa trên các bầu trời, bình an dưới thế cho người thành tâm.”
Sau khi các thiên thần biến mất, bầu trời trở lại đêm khuya. Chúng tôi thật ngỡ ngàng và đầy hưng phấn vì không hiểu tại sao Đấng cao cả lại đoái đến những kẻ cơ hàn như chúng tôi. Bụng bảo dạ, chúng tôi phải đi vào làng Bết-lê-hem để biết điều kỳ diệu này có thật hay chỉ là ảo giác tâm linh theo lòng khao khát mong chờ của anh em chúng tôi. Chúng tôi cơ hàn nhưng không bao giờ biết nói dối, chúng tôi nghèo nhưng chân thật nên ghét những điều gian trá. Phải tận mắt nhìn xem chúng tôi mới tin. Thật đúng như lời thiên sứ nói, tại thành Bết-lê-hem nhà nhà đều đóng kín tối thui, nhưng có một chỗ dành cho gia súc ngoài hiên của một ngôi nhà ánh sáng đèn leo lét tỏa ra. Chúng tôi vội vả bước đến nhìn thấy quả thật đúng như lời thiên sứ báo tin. Thật là một sự diệu kỳ lạ lùng và hạnh phúc tuôn tràn qua khóe mắt. Sự thật về Chúa cứu thế ngay trước mắt! Chúng tôi quyết định kể lại cho mẹ con trẻ nghe, để rồi từ đó chúng tôi thuật lại cho tất cả mọi người biết về con trời giáng sinh yêu thương những kẻ cơ hàn.
Mùa Giáng Sinh 2017
Mục sư Nguyễn Quốc Dũng
(Quan sát di tích tại Bết-lê-hem qua chuyến hành hương xứ thánh năm 2007)
Các bài khác
:: TIN VÀO LỜI CHÚA
:: VỮNG LÒNG BỀN CHÍ TRÔNG ĐỢI NƠI CHÚA
:: ĐỨC TIN TỪ CẠN ĐẾN SÂU
:: TRÔNG CẬY SỰ CÔNG BÌNH CỦA CHÚA TRỜI
:: TRANG BỊ TÂM LINH
|
|