CUỘC ĐỜI NHÀ TRUYỀN GIÁO TỐNG THƯỢNG TIẾT
CUỘC ĐỜI NHÀ TRUYỀN GIÁO
TỐNG THƯỢNG TIẾT
Nguyên tác: Liêu Dục Lăng
Lời giới thiệu
Hội Thánh Tin Lành Việt Nam vừa qua giai đoạn hình thành (năm 1927) đã lo “phát triển mạnh và phát triển nhanh”. Trong cuộc “phát triển” ấy, một thành phần mới gia nhập giáo hội vì những lý do thúc đẩy khác nhau: kinh tế, chính trị, tôn giáo v.v.. nhưng không phải vì tìm “chân lý” hoặc tìm “Chúa Cứu Thế”. Có những “phong trào quần chúng” (mass movements) theo các bản báo cáo lạc quan: có nơi đến 2000 gia nhập giáo hội, trong một năm – đến nỗi nơi đó được chỉ định tiếp Đại Hội Đồng Tổng Liên Hội – và mời dược Tiến sĩ Jonathan Goforth nổi danh là vị Sứ giả Phục hưng Trung Quốc làm diễn giả chính. Tuy nhiên, Mục sư Goforth đã buồn bã nhận định rằng: Trong các cuộc giảng Phục Hưng suốt đời ông, chỉ có 2 địa điểm không được Phục Hưng, lý do duy nhất là “sự ngăn trở nội bộ”. Rất tiếc là 1 trong 2 địa điểm đó là nơi họp Đại Hội Đồng Tổng Liên ở Việt Nam năm 1928.
10 năm trôi qua trong tình trạng đó: cố gắng hoạt động thật nhiều nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu. Nhiều chi hội từ Bắc chí Nam bắt đầu cầu nguyện xin Chúa Phục hưng Hội Thánh.
Các sinh viên, học viên Trường Kinh Thánh Đà Nẵng mặc dù học tập hết sức bận rộn, nhưng quyết định dành thì giờ mỗi buổi sáng tinh sương suốt 2 niên khóa 1936-37 và 1937-38 để thiết tha cầu xin Chúa Phục hưng Hội Thánh Việt Nam.
Chúa đã trả lời cầu nguyện đó, đúng theo lời hứa của Ngài, Chúa sai Tiến sĩ Tống Thượng Tiết (Dr.Sung) đến Việt Nam năm 1938, giảng Phục hưng tại Hà Nội, Vĩnh Long và Đà Nẵng.
Thật Chúa Thánh Linh đã Phục hưng Hội Thánh Việt Nam. Hàng ngàn vị tín hữu và Mục sư, Truyền đạo đang tích cực phục vụ Chúa tại Việt Nam và hải ngoại đã nhìn nhận rằng họ đã gặp Chúa và được Chúa xoay hẳn hướng đi của cuộc đời họ trực tiếp hoặc gián tiếp do cuộc giảng dạy của Tiến sĩ Tống Thượng Tiết.
Năm 1938, người viết mới được 12 tuổi, nhưng đã được hân hạnh đến dự cuộc nhóm Phục hưng của Tiến sĩ Tống Thượng Tiết tại Đà Nẵng. MS Tống Thượng Tiết giảng suốt 6 ngày, mỗi ngày 3 lần, mỗi lần từ 2 tiếng rưỡi đến 3 tiếng. Một đêm, sau khi nghe lời Chúa, về ‘con chiên lạc mất’ và đáp ứng lời kêu gọi của Chúa, người viết đã tiến lên trước tòa giảng, xin MS Tống Thượng Tiết cầu nguyện; và đã được tái sinh ngay đêm đó.
Năm 1959, 1 nhà sử đã sưu khảo tư liệu khắp Châu Á để viết 1 quyển tiểu sử của Tiến sĩ Tống Thượng Tiết – ông đã kết luận rằng: Hầu hết những người đang được Chúa đại dụng tại Đông Á và Đông Nam Á đều đã được Chúa tái sinh, kêu gọi và xức dầu Thánh Linh qua Tiến sĩ Tống Thượng Tiết.
Tạ ơn Chúa, nhờ 1 số anh chi em cố gắng dâng hiến tiền bạc, thì giờ, nên bộ tiểu sử Tống Thượng Tiết của tác giả Liêu Dục Lăng do ông Trần Quốc dịch thuật này được ấn hành để phổ biến cho các Hội Thánh và cộng đồng VN hải ngoại.
Xin Chúa Thánh Linh dùng tác phẩm này để ban phước dồi dào cho người đọc.
California Ngày 1 tháng 7, 1995
MS Lê Hoàng Phu
Chân thành cảm tạ:
MS và Bà Lê Phước Nguyên
Ông Trần Ngọc Bản
Bà Trần Lê Minh
MS Lưu Quang Lâm
Họa sĩ Trương Bửu Giám
GS. Nguyễn Ánh Tuyết
Vĩnh Phúc
Địa chỉ liêm lạc: Thần học Phúc Âm
1022 Lannett Road
Whittier, CA 90605
CUỘC ĐỜI TỐNG THƯỢNG TIẾT
CHƯƠNG I
LỜI MỞ ĐẦU
Chỉ có người Trung Hoa mới có lối suy nghĩ của người Trung Hoa. Chỉ có người Trung Hoa mới sử dụng được những cốt truyện, những ẩn dụ, những ngụ ngôn Trung Hoa để thuyết phục và làm cho say mê người nghe. Lối diễn đạt của người ngoại quốc khó có thể thuyết phục được người Trung Hoa và không thể biến Trung Hoa thành một quốc gia của Chúa Cứu Thế.
Hàng ngàn hoặc hàng vạn giáo sĩ người Anh, người Mỹ sẽ không thể biến Trung Hoa thành một quốc gia Cơ-đốc Giáo. Chúng ta cần hàng ngàn, hàng vạn người Trung Hoa, những người Trung Hoa thật sự dâng trọn tấm lòng, thân thể và môi miệng cho Chúa. Chúng ta chỉ cần loại người này, không nhất thiết họ phải thông thạo Nho học. Nếu họ tinh thông Nho học thì lại càng quí, nhưng điều quan trọng hơn cả là họ cần phải có lòng quả cảm, chân thành, có tinh thần dâng mình và là những con người khí khái, độc lập. Đã đến lúc chúng ta phải tìm ra 1 sứ đồ người Trung Hoa cho người Trung Hoa chính gốc Hoa, không là người ngoại quốc.
“Vị sứ đồ Trung Hoa này xuất hiện từ đâu? Có phải từ Thần học viện chăng? Xin thưa, vị này xuất hiện từ một nơi không ai ngờ. Như bao nhiêu sứ giả của Thượng Đế trước kia đã xuất hiện, chúng ta không biết, chúng ta chỉ có thể cầu nguyện cho vị ấy mau đến. Cầu nguyện để khi người ấy đến thì sẽ giống như Giăng Báp-tít, làm vang dội cả đồng vắng, rúng động cả toàn quốc.”
Những lời nói trên là của Edwin Joshua Duke, 1 giáo sĩ thuộc Anh quốc giáo được phái đến Phúc Kiến vào năm 1885.
50 năm sau người sứ đồ Trung Hoa ấy đã xuất hiện và đã phát ra những tiếng kêu làm rúng động đồng vắng Trung Hoa. Ấy là 1 người Trung Hoa, 1 học giả uyên bác đã dâng trọn vốn liếng tri thức và cuộc sống của mình trên bàn thờ của Chúa, không giữ lại cho mình một chút gì. Người ấy can đảm, không sợ hãi, không giả dối, không biết màu mè, chỉ biết cùng đi với Chúa. Người đã ra đi một mình với Chúa, và chỉ đặt tất cả niềm tin vào Chúa. Người không ỷ lại vào 1 thế lực nào ngoài Chúa. Người ấy chính là Mục sư Tống Thượng Tiết, người thôn Phủ Túc, huyện Phổ Điền, tỉnh Phúc Kiến.
Vị sứ đồ Trung Hoa này có 1 cá tánh rất đặc biệt, với 1 tâm tình thật nóng cháy, rất yêu linh hồn con người, nhưng lại không có sự hòa nhã của 1 Cơ-đốc nhân thông thường. Người không có 1 hình dung tốt đẹp, diện mạo không khôi ngô, ăn mặc lại lôi thôi. Nhưng người lại là 1 học giả uyên bác, 1 khoa học gia lỗi lạc. Khi người truyền bá Phúc âm thì rất giản dị, dễ hiểu, không một chút phô trương về vốn liếng tri thức của mình.
Tống Thượng Tiết là người đã đề xướng sự thờ phượng trong gia đình. Nhưng chính ông lại đã rời khỏi gia đình mình, không bịn rịn để đi xa truyền bá Phúc âm.
Lúc thuyết giảng ông thường múa may chân tay, la lớn tiếng, có khi làm người nghe cảm động muốn khóc, nhiều lúc lại khiến thính giả không nhịn được cười. Nhưng khi xuống khỏi tòa giảng, ông trở lại lầm lì, ít nói. Ông nơi vắng vẻ một mình, dưới mắt người khác ông là 1 người quái đản, kỳ khôi. Khi tiếp xúc với những người nước ngoài, đặc biệt là với các giáo sĩ và giáo sư thì có 1 liên hệ thật là thâm sâu, nhưng đối với người ngoại quốc nào có cung cách khách sáo thì ông phán rất gay gắt. Điều này có thể gây hiểu lầm ông là 1 người bài ngoại. Ông gớm ghê tôi, đả phá và coi tội lỗi như kẻ thù. Nhưng điều làm cho ngưởi ra cảm động nhất, ấy là lòng từ ái của Chúa ở trong ông.
Là 1 nhà tổ chức thiên phú có biệt tài lãnh đạo, nhưng chính ông lại khước từ tổ chức. không thiết lập giáo hội, không thành lập giáo phái, không thích làm lãnh tụ. Bị nhiều người phê phán, nhưng ông coi thường mọi thị phi, không để ý đến vinh dự cá nhân. Ông được rất nhiều người thương yêu và đồng thời cũng bị nhiều kẻ chán ghét. Đó là những cá tính của nha truyền đạo vĩ đại người Trung Hoa này – Mục sư Tống Thượng Tiết. Thoạt nhìn bề ngoài có vẻ như đầy mâu thuẫn, nhưng thật ra ông có 1 tâm hồn thật tuyệt diệu hài hòa.
Giống như Giăng Báp-tít, Tống Thượng Tiết qua đời trong tuổi tráng niên, hưởng thọ chỉ 43 tuổi. Hầu việc Chúa vỏn vẹn chỉ 15 năm. Thời gian tuy ngắn, nhưng khối lượng công việc thò không nhỏ, mà thành tích lại càng lớn lao hơn nữa. Trong vòng 15 năm ngắn ngủi ấy ông đã làm chấn động cả nước Trung Hoa, chấn động giáo hội cả ở miền Trung và khắp miền Đông Nam Châu Á.
Hàng ngàn người trong vùng đã tin nhận Chúa Cứu Thế sau khi nghe ông giảng. Giáo Hội Trung Hoa sở dĩ còn đứng vững sau cuộc chiến tranh Trung-Nhật, công lao này phải qui vào quyền Chúa và Mục sư Tống Thượng Tiết. Đời sống tâm linh của những giáo hội đó không bị nao núng và sức sống thuộc linh của tín hữu không bị khô cạn cũng là nhờ công lao khó nhọc của ông.
Tại Trung Hoa, hoặc các nước Đông Nam Á, trên nước Mỹ, nước Anh hay bất cứ một nơi nào có người Trung Hoa, nêu chúng ta trò chuyện với những tín hữu Cơ-đốc người gốc Đông Nam Á, họ đều rất trìu mến khi nhắc đến Mục sư Tống Thượng Tiết. Rất nhiều người ngoại đạo đã tin nhận Chúa Cứu Thế khi nghe ông giảng; nhiều lãnh tụ Cơ-đốc đã nản lòng lùi bước nhờ những bài giảng bồi linh của ông mà được trở lại nóng cháy, hăng hái tiến tới trên bước đường hầu việc Chúa. Nhiều nhà lãnh đạo giáo hội, vốn chỉ là hưu danh vô thực, và những người “theo đạo kiếm gạo”, nhờ nghe những sứ điệp của ông đã trỏ thành những người có sức sống tâm linh thực sự, đầy dẫy Chúa Thánh Linh và trở nên những nhà truyền bá Phúc âm trung kiên của Chúa Cứu Thế. Những thành quả quý báu đó vẫn được tồn tại lâu dài.
CHƯƠNG 2
SỰ TÁI SANH CỦA NGƯỜI CHA
VÀ SỰ ĐẮC THẮNG
Trong 1 tự truyện của Mục sư Tống Thượng Tiết với tựa đề “Lời Chứng Của Tôi”, ông thường thích thú nhắc lại những lời giáo huấn của cha khi còn thơ ấu. Thân sinh của ông rất ưa nhắc lại sự từng trải tái sanh của đời mình. Lúc ấy ông còn quá nhỏ nên không hiểu được ý nghĩa 2 chữ “tái sanh”, nhưng ông cảm thấy chuyện này thật phước hạnh.
Thân phụ của Tống Thượng Tiết, Mục sư Tống Học Liên, lúc 16 tuổi đã vào một Thần học viện của quận Phúc Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến. Sau 2 năm trong trường, ông chỉ là 1 sinh viên hoàn toàn nô lệ vào thời khóa biểu, học để được lên lớp và lấy điểm 1 cách máy móc, tâm tình không nóng cháy, cũng không có tinh thần tìm tòi học hỏi, chẳng màng đến thuộc linh, không thật sự nhận biết Chúa Giê-su. Hai niên học trôi qua 1 cách vô bổ. Đến năm thứ ba là năm tốt nghiệp, nửa niên học đầu ông vẫn theo lề thói cũ, không có gì đổi mới và sự học cũng rất tầm thường. Đến tam cá nguyệt cuối cùng, trong tâm trí trầm lặng của ông bỗng nhiên có luống gió thổi vào và gợn lên những làn sóng nhè nhẹ. Khi học Phúc âm Giăng và thư Phao-lô gửi cho các tín hữu La-mã, ông được sự khải thị của Thánh Linh cảm biết mình là con người đầy tội lỗi. Những sự đen tối trong thâm tâm được Thánh Linh soi rọi vào, những tội lỗi kín giấu được bày ra trước mắt. Ông phải tìm cách giải quyết. Ngày nào chưa giải quyết xong là ngày ấy chưa có sự bình an. Một cuộc chiến khốc liệt tranh chấp trong nội tâm khiến ông ăn ngủ không yên. Đến lúc kiệt sức thì ông chỉ biết kêu cầu với Chúa. Mỗi buổi sáng, trong khi mọi người còn an giấc, ông đã thức dậy tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Đêm đêm trong khi mọi người đã đi vào giấc ngủ thì ông vẫn thức để cầu nguyện xin Chúa ban cho sự vui thỏa trong lòng, cũng như sự bình an là đã được tha tội.
Một ngày kia, khi bình minh vừa ló dạng, ông đã thú nhận với Chúa tất cả mọi tội lỗi của mình. Trong lúc thật sự đau thương thống hối, ông nhận được sự tha thứ của Chúa, được gần gũi trong sự hiện diện của Ngài. Ngày hôm đó ông được sự sống từ Thánh Linh cũng là khởi điểm một đời sống mới. Lúc ấy ông được 19 tuổi.
Sau khi tốt nghiệp trường thần đạo ở Phước Châu, ông trở về quê cũ là huyện Hưng Hóa, cũng gọi là huyện Phổ Điền, làng Phượng Tích, tỉnh Phúc Kiến, bắt đầu cuộc đời truyền bá Phúc âm. Với cuộc đời mới được Thánh Linh thăm viếng, cuộc sống ở nông thôn thật đơn sơ nghèo nàn, nhưng cũng thoải mái dễ chịu. Ông đã cần cù gieo giống, chăm sóc, vun sới những thửa ruộng lòng của những nông dân nơi quê hương. Thấm thoát năm, 6 năm trôi qua, ông lập gia đình năm 25 tuổi. Vợ ông là 1 cô gái trong gia đình Phật giáo. Sở dĩ cô gái thơ này nhận lấy Mục sư Tống Học Liên vì ngày trước bố mẹ 2 bên gia đình, theo tục lệ cổ truyền đã đính ước cùng nhau, hứa hôn cho 2 con khi chúng còn trong bụng mẹ. Bà Tống Học Liên quả là 1 người đàn bà đảm đang, cần kiệm. Tình thương yêu vợ chồng ngày càng dậm nòng.
Ngày ngày ông đi truyền giảng Phúc âm cho dân chúng trong làng, đêm về chong đèn dạy vợ viết và đọc. Sau một thời gian nghe chồng giảng dạy hiểu biết, bà chấp nhận từ bỏ Phật giáo, tin Chúa Giê-su và nhận lễ Báp-têm. Nhưng đó chỉ là việc làm của con người chứ chưa phải là việc của Đức Chúa Trời. Bà đã xưng nhận đức tin, nhưng sự hiểu biết về Chúa còn rất nông cạn, lòng kính yêu Chúa cũng còn nhiều hạn hẹp. Lập gia đình chưa đầy 1 năm bà Tống Học Liên sinh hạ 1 bé gái đầu lòng. Qua năm thứ nhì lại thêm được 1 trai, đó là anh và chị của Tống Thượng Tiết.
Gia đình 4 người thì vui vẻ nhộn nhịp, nhưng bổn phận của người cha ngày càng nặng. Lương hàng tháng của Mục sư Tống Học Liên lúc ấy được chừng 5, 6 đồng. Số lượng quá ít, thật là eo hẹp cho việc chi tiêu trong gia đình.
Trong cảnh nghèo túng, ông Tống Học Liên loay hoay suy nghĩ mãi. Những đêm dài trằn trọc không sao ngủ được. Trong mông lung nghĩ ngợi, hình như có 1 tiếng nói thì thầm thách thức rằng: “Nghiệp dĩ làm người truyền đạo này giống như một kiếp ăn mày! Chưa xong bữa sáng đã phải lo chạy bữa tối. Cuộc đời khốn cùng như vậy, một thư sinh vốn chỉ biết bút nghiên như mình làm sao chịu nổi? Dù chưa phải là 1 nhà Nho học tinh thông, nhưng mình cũng thuộc dòng dõi sĩ phu. Trong gia đình cũng đủ cầm, kỳ, thi, họa. Bây giờ nếu không hành chức nghiệp truyền đạo này chẳng nhẽ không sống nổi hay sao?”. Rồi 1 kết luận nổi lên trong tâm trí: “Thôi thì bỏ chức vị truyền đạo, rời khỏi chốn làng mạc nghèo nàn này, đi đến 1 thành phố để làm 1 ký giả cho nhà báo; hay vào 1 trường ngoại quốc xin một chức vị giáo sư”. Đó là tiếng nói của ma quỷ. Nhưng rồi Thánh Linh cũng êm dịu nhắc nhở ông những câu trong Kinh Thánh như những ngọn đèn soi thấu đến tâm linh. Châm ngôn đoạn 3 câu 5: “Hãy hết lòng tin cậy nơi Đức Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sụ thông sáng của con”. Lương tâm ông cũng âm thầm trách móc: “Chúa Giê-su đã ban ân điển tha tội cho ngươi, cho dẫu ngươi có xả thân chịu chết, hay hi sinh bị bắt bớ đánh đập đi nữa thì cũng không thể đền đáp được ân thương xót ấy. Những khó khăn nho nhỏ này của cuộc sống ngươi không thể chịu đựng được cho Ngài sao? Ngươi muốn phụng sự cho thần tài, làm nô lệ cho tiền bạc, chỉ muốn chiếm hữu ruộng đất mà không mà không đơm bông kết trái của sự sống! Ngày ngươi gặp Chúa Giê-su, ngươi 2 bàn tay trắng. Ngươi há không thấy chim trên trời, hoa cỏ ngoài đồng: chúng không trồng, không gieo gặt, cũng chẳng quay tơ dệt chỉ. Chúa nuôi chúng làm sao? Chim vẫn bay lượn trên vòm trởi xanh, hoa cỏ vẫn trang điểm các đồng hoang vắng. Mắt của Chúa há không đang theo dõi ngươi và quý ngươi hơn tất cả vạn vật trên đời này hay sao? Ngươi hãy xét lại, trong quá khứ có ai đi rao giảng Phúc âm mà chết đói trong những ngôi làng nghèo nàn này chưa? Ngươi phải lấy lòng tin cậy nơi Chúa Hằng Hữu, lấy lời vua Đa-vít làm tấm gương soi rọi cho lòng ngươi: “Sư tử tơ bị thiếu kém và đói, nhưng người nào tìm cầu nơi Đức Giê-hô-va chẳng thiếu của tốt gì”.
Sau cuộc chiến tâm linh ác liệt kéo dài từ đêm khuya đến gần sáng, khi trăng đã lặn, và gà đã gáy sáng thì ông Tống Học Liên nghe thấy rõ ràng tiếng nói của Chúa Giê-su từ trời theo gió sáng sớm rót vào tai: “Tôi tớ của Ta ơi! Đừng sợ, có Ta đây, tất cả những nhu cầu của ngươi, Ta đều biết cả rồi”. Ông thức dậy, choàng áo lên người và báo ngay cho vợ biết sự chiến thắng của mình trong đêm qua khi giao chiến với ma quỉ. Từ đó ông không còn ý định rời bỏ chức vị nữa và bắt đầu chỉnh đốn lại cuộc đời truyền giảng Phúc âm của mình.
Sau kinh nghiệm được thánh hóa này, chức vụ truyền đạo càng ngày càng khiến cho ông phấn chấn. Sau này được Chúa trọng dụng, kết quả lại càng tốt đẹp hơn. Hội Thánh do ông quản nhiệm mới đầu số tín hữu chỉ có hơn 100. 1 năm sau con số tăng lên đến 5, 6 trăm. Năm thứ 3 được trên 1000 tín hữu…
Tống Học Liên chẳng những có quyền năng trong sự giảng dạy, mà cũng đầy ơn trong lãnh vực viết sách báo. Ông rất ham mê đọc sách, nhất là những loại sách cổ, có bao nhiêu tiền ông đều dành để mua sách. Thư viện của gia đình ông có trên 10 ngàn quyển và ông cũng rất quý những quyển sách ấy. Không phải ai cũng dễ dàng mượn sách của ông. Một lần kia Tống Thượng Tiết làm long bìa 1 quyển sách, trong lòng rất lo âu, mong sao cha đừng phát giác. Nhưng lỗi lầm không sao giấu mãi được nên cậu đã bị 1 trận đòn đích đáng.
Tống Học Liên có khả năng văn chương nên đã được mời làm chủ biên tờ Phấn Hưng, tờ báo này có rất nhiều độc giả trong tỉnh Phúc Kiến. Ông cũng rất thích viết nhật ký, mỗi ngày hầu như ông đều ghi lại mọi việc làm, mọi cảm nghĩ của mình. Sau này chính Tống Thượng Tiết cũng được thừa hưởng thói quen này.
CHƯƠNG 3
NGƯỜI MẸ ĐƯỢC TÁI SANH TRONG
MỘT CƠN BẠO BỆNH
Tuy cha của Tống Thượng Tiết là 1 Mục sư đầy ơn, nhưng cụ bà vẫn chỉ là 1 người tín đồ “hâm hẩm”. Chỉ việc tề gia nội trợ. Mấy năm sau bà sanh hạ thêm 2 người con. Đến lần sinh nở thứ 5 thì bà bị 1 bịnh nghặt nghèo. Đứa con thứ 5 có sinh nhưng không có dưỡng. Bà mắc phải 1 bệnh không ai chẩn đoán được. Khi thì hồn bà như bay lên không trung, sống trong hư ảo với các thiên thần. Khi thì bà trở lại với trần gian sống với gia đình, sống với chồng con. Bà cứ rên siết trong đau đớn, không một y sĩ nào tìm được căn nguyên hay định được bệnh. Hơn nửa năm trôi qua, bà chỉ sống với những siêu thuốc lúc nào cũng sẵn bên mình. Những danh y và những người có kinh nghiệm trong làng đều cho rằng bà sẽ không còn sống bao lâu nữa. Họ khuyên ông Tống Học Liên nên mua sẵn quan tài và áo quần lo việc tẩm liệm, để khi hữu sự khỏi phải vội vàng hấp tấp. Ông nghe như vậy chỉ biết nuốt nước mắt chuẩn bị như họ đã khuyên nhủ. Vào một đêm 30 nhằm mùa đông giá buốt, dưới ánh đèn dầu leo lét, buồn thảm, trên giường bệnh dường như sự chết đã bao trùm bà. Dẫn hết các con đến trước giường bệnh, ông cầm cánh tay chỉ còn xương bọc da của vợ và nói trong nghẹn ngào nước mắt: “Tôi và các con…”. Những tiếng cuối cùng chìm trong uất nghẹn không thốt được thành lời. Bà cố gắng nhướng đôi mắt đã trĩu nặng mệt mỏi, nước mắt dầm dìa trên gối, bà cố lấy hết tàn hơi nhưng không thể nói ra được. Bà chỉ còn những hơi thở đứt quãng. Căn phòng rơi vào một khoảng khắc im lặng ghê rợn. Bên ngoài song cửa gió bấc gào từng cơn… Bỗng những tiếng khóc của các con vang lên hòa lẫn với tiếng cầu nguyện của Tống Mục Sư tạo thành một tấu khúc buồn thê thảm…
Thình lình bà cụ ngồi bật dậy và nói với chồng: “Lấy cơm và thịt cho em ăn đi!” Một người chỉ còn những hơi thở đứt quãng trong giờ hấp hối, bỗng nhiên ngồi dậy đã là một chuyện lạ, mà lại còn đòi ăn cơm và thịt thì quả là một việc lạ trong những việc lạ! Hơn nữa đã lâu lắm rồi bà chẳng ăn hay uống gì. Tống Mục sư lúc nào cũng tin vào quyền năng của Chúa nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên… Ông vừa hết sức ngợi khen, cảm tạ quyền năng Chúa, vừa đi vô bếp nầu cơm và làm thức rồi mang vào cho vợ.
Số là khi đến ranh giới của sự chết, bà nghe tiếng nói của Chúa Giê-su là người thầy thuốc có thể ban cho sự sống: “Con ơi, hãy chổi dậy ăn cơm và thịt, đêm nay Ta ban cho con sự sống mới”. Nghe được tiếng nói đầy năng quyền này, bà đã bật ngồi dậy, cảm thấy đói và khát, nên đã xin chồng cho ăn uống… Khi được mặc khải như vậy rồi, lòng bà trở nên nóng cháy. Sau này chẳng những bà đồng lao cộng khổ cùng chồng mà còn giúp Tống Mục sư rất nhiều trong chức vụ.
Khi vợ lâm trọng bịnh thì Tống Mục sư đem các con gửi cho 1 bà quen chăm sóc hộ. Vợ đã khỏi bệnh, ông đi rước các con về. Nhìn các con bà òa lên khóc. Nửa năm thiếu mẹ, lại không được tắm rửa, săn sóc chu đáo, các con dơ bẩn đáng thương. Bà liền chổi dậy tắm rửa thay quần áo và bắt chí, rận cho các con.
CHƯƠNG 4
THỜI THƠ ẤU (1901-1909)
Ngày 27-9-1901 nhằm Tết Trung Thu Âm lịch, năm Tân Sửu, lúc 4 giờ chiều, đúng lúc gia đình cùng túng nhất bà Tống Học Liên đã hạ sinh thêm 1 con trai thứ 3 tại làng Phượng Tích. Thêm 1 miệng ăn là thêm phần khó khăn. Nhưng cám ơn Chúa về phần thuộc linh lúc ấy cả 2 ông bà đều có sự sống sung mãn của Chúa Cứu Thế. Họ không lấy sự “thêm người” trong gia đình là 1 gánh nặng. Trái lại họ biết cám ơn Chúa và đồng tâm đặt tên cho con này là Chủ Ân tức là ân điển của Chúa (sau này đổi tên lại là Tiến sĩ Tống Thượng Tiết). Tuy tài chánh trong gia đình rất đỗi bần hàn, nhưng bầu không khí vui tươi không bao giờ sút giảm. Ai nấy đều khen gia đình họ Tống là “thiên đàng trên đất”. Đúng vậy, bài Thánh Ca gia đình yêu thích luôn hát là “Khi Chúa Giê-su ở cùng ấy nơi Thiên cung!”.
Lúc cậu bé Chủ Ân lên 6 thì gia đình dọn từ làng Phượng Tích đến thành Hưng Hóa. Tống Mục sư kiêm giữ chức vụ hiệu trưởng trường Phúc Âm Thành Hưng, 1 trường tiểu học của Giáo Hội ngay cạnh nhà thờ. Mỗi Chúa Nhật đều có lớp học Thánh Kinh. Chủ Ân thường chăm chỉ đến học lớp này. Những giáo viên trường Chúa Nhật rất sành tâm lý nhi đồng và họ biết cách dạy dỗ, khiến cho các em rất ham thích lớp học mà không cảm thấy chán nản. Chủ Ân nhận rất nhiều ân phước tại lớp học. Sau này, Tống Thượng Tiết kể lại những kỷ niệm với trường Chúa Nhật với đầy vẻ thích thú: “Đó là thời gian tôi thấy thích thú nhất, tôi nhớ từng mẩu chuyện của bài học và thường dùng để ứng dụng chân lý cho đời sống thực tế hàng ngày của tôi”.
Trong thời thơ ấu, khi còn hồn nhiên vui đùa với bạn bè, thì 1 biến cố thương đau đã hằn sâu vào lòng và biến đổi hẳn cuộc đời Chủ Ân. Một buổi chiều, cậu đang cắp sách trên đường từ trường về, gần đến nhà thì nghe mẹ khóc la. Chủ Ân rất sợ hãi, không biết chuyện gì đã xảy ra. Anh và chị đôi mắt đỏ hoe buồn thảm cho biết: “Em gái Thụy Đức đã chết rồi!”
Thụy Đức bé bỏng nằm yên trên đất, Chủ Ân chạy lại nhấc cánh tay lạnh cứng của em và nước mắt trào tuôn…
Cái chết của bé Thụy Đức đã ảnh hưởng nặng nề trên đời sống của Chủ Ân. Cậu thường nghĩ ngợi: “Người chết sẽ đi về đâu?. Câu hỏi đã bám chặt vào tâm trí thơ ngây của cậu, không sao xóa mờ được. Nhiều đêm Chủ Ân bị ác mộng, thấy quỷ dữ đến bắt cậu đi làm phu tù cho chúng. Kinh hoàng thức giấc, toát mồ hôi lạnh cậu kêu thét lên để cầu cứu cha mẹ.
Tống Thượng Tiết cũng đã kể 1 câu chuyện thật hay: “Lúc thơ ấu tôi rất ham thích tiền bạc, việc gì cũng dính líu đến tiền bạc. Mẹ bảo học thuộc lòng Kinh Thánh câu gốc, tôi ra giá mỗi câu 1 đồng tiền”. Mẹ chỉ muốn mỗi ngày thuộc 1 câu, sợ học nhiều tôi không nhớ nổi! Sau 1 năm, tôi có hơn 300 đồng tiền. Tôi tự nghĩ, tôi đã giàu lắm rồi, lúc nào cũng sợ mất tiền, ăn ngủ không yên. Mẹ bảo tôi đem tiền gửi vào “nhà băng” của mẹ và mội tháng mẹ cho thêm 1 đồng lời. Nghe đến tiền lời, tôi cảm thấy thật là sung sướng. Nhưng tôi nhớ lại khi bé Thụy Đức mất đi, những đồ chơi của Thụy Đức không mang theo được. Điều này khiến tôi liên tưởng đến cái gia tài của mình: “Tiền! Khi chết đi có mang theo được đâu? Tôi thấy mình thật ngu dại, và điều này đã đánh gục lòng tham tiền bạc của tôi.”
CHƯƠNG 5
CUỘC ĐẠI PHẤN HƯNG
TẠI HƯNG HÓA
Năm 1909, Hội Thánh tại Hưng Hóa tổ chức 1 đại hội bồi linh, từ đại hội này Chúa ban cho một cơn phấn hưng kỳ diệu “có 1 không 2”. Lửa Thánh Linh bùng cháy mạnh mẽ trong lòng mỗi con cái, tôi tớ Chúa. Trong thời gian đại hội bồi linh đó, Chủ Ân lúc ấy mới lên 9. Một khải tượng về vinh quang rực rỡ của Chúa qua một vùng hào quang chói lọi đã khắc sâu vào tâm khảm cậu.
Chủ tọa hội đồng bồi linh là Mục sư của thành Hưng Hóa, ông cũng thường đến lớp trường Chúa Nhật của Chủ Ân học để kể chuyện. Lối kể chuyện cũng như phong thái của ông đã thu hút khoảng ba, bốn trăm trẻ em trong trường. Chúng đã để hết tâm trí vào mẩu chuyện ông kể.
Một buổi chiều thứ năm, nhân lễ kỷ niệm Chúa chịu thương khó, ông đã giảng 1 bài về Chúa bị bắt trong vườn Ghết-sê-ma-nê. Từng lời, từng câu như những mũi tên xuyên thẳng vào lòng người nghe. Ông diễn đạt thật linh động và sâu sắc. Đến 34 năm sau, Chủ Ân hồi tưởng lại mà nước mắt vẫn tuôn trào.
Trong đại hội bồi linh Hưng Hóa, vị Mục sư này giảng dạy cách đầy dẫy Đức Thánh Linh và đầy năng lực từ thiên thượng, đạt được rất nhiều kết quả mỹ mãn. Những người đến dự chiếm hết ghế ngồi, hết luôn cả chỗ đứng bên trong, phải tràn ra bên ngoài, các lối đi cũng không còn chỗ chen chân.
Ban tổ chức phải dựng tạm 1 căn lều, sức chứa khoảng ba, bốn ngàn người. Nhưng chẳng mấy chốc căn lều cũng không đủ vì người đến dự đại hội ngày càng đông. Ngoài dân địa phương, tín hữu những vùng xa như Phước Châu, Hạ Môn rủ nhau kéo đến đại hội.
Các Hội Thánh miền Nam Trung Hoa cũng gửi đại diện đến. Thậm chí có những con cái Chúa từ Mỹ Châu cũng đến dự nữa. Đây là một chuyện khó tin, nhưng trong tác phẩm “Lời Chứng Của Tôi”, Tống Thượng Tiết đã ghi lại điều này. Những người đến dự đại hội đều được Chúa Thánh Linh thăm viếng, trở về Hội Thánh nhà với tinh thần nóng cháy và tấm lòng sung mãn.
Trong những buổi thờ phượng, có rất nhiều tín hữu được Chúa Thánh Linh cảm hóa, ăn năn xưng hết tội lỗi của mình. Người này đã thừa nhận thâm lạm công quỹ, người kia xưng là đã ăn cắp của người khác, cậu trai này nhận có đánh cắp cây dù, em bé nọ nhận có ăn cắp quả bóng. Ai nấy xưng ra những tội của mình đã phạm. Thật là kỳ diệu, có 200 người nghiện ma túy cũng đứng dậy xưng tội, họ đưa ra những dọc tẩu dùng để hút á phiện, chất thành đống và đã châm lửa đốt cháy đi. Quả là một cảnh tượng cảm động. Cảnh tượng của những người được rửa sạch tội lỗi, mở rộng cửa lòng để tiếp nhận Chúa Thánh Linh. Rất nhiều nhi đồng đến dự đại hội, sau khi đươc thúc giục xưng tội, chúng đã trưng ra những vật đã ăn cắp. Vô số những quả bóng, sách vở, nghiên bút… được hoàn trả.
Lúc ấy Chủ Ân mới lên 9. Tuy rằng ngày ngày đều đến nhà thờ nghe giảng nhưng chưa xưng nhận tội lỗi nên chưa nhận được sự sống mới. Cậu bé đã cảm nhận có một quyền năng đang thôi thúc khiến cậu không thể đến nghe được.
Sau này, Tống Thượng Tiết đã tìm hiểu nguyên nhân sâu kín đã đưa đến cuộc phấn hưng: Thời gian trước đại hội tại Hưng Hóa có 2 bà cụ bên Mỹ hết lòng kính yêu Chúa, họ đã khẩn thiết cầu nguyện cùng Chúa cho Hội Thánh tại Hưng Hóa. Một ngày kia trong khi cầu nguyện họ nghe thấy tiếng nói từ trên trời: “Sau ngày lễ Chúa chịu thương khó năm 1909, tại Hưng Hóa sẽ có cơn đại phấn hưng”. Họ bèn viết thư báo cho các vị giáo sĩ đang phục vụ tại đây. Thư chưa đến được Hưng Hóa thì ngọn lửa phấn hưng đã bùng cháy. Điều này minh chứng quyền năng của sự cầu thay. Trong tác phẩm “Lời Chứng Của Tôi”, Tống Thượng Tiết viết: “Trong suốt đời tôi, tôi luôn luôn muốn nhớ lại đại hội phấn hưng năm đó. Nó như một đồng cỏ xanh tươi mát, luống gió của Thánh Linh thổi đến, những hạt giống tốt ở trong Hội Thánh đã lan tràn khắp nơi và nở ra những đóa hoa tươi thắm và kết những quả sự sống đầy tràn.”
Cuộc phấn hưng tại Hưng Hóa là 1 bài học rất hữu ích và thiết thực đã hằn sâu và tâm khảm cậu bé Chủ Ân. Sau này Tiến sĩ Tống Thượng Tiết thường áp dụng nguyên tắc của ngọn lửa Phấn Hưng Hưng Hóa trong suốt cuộc đời truyền bá Phúc âm của ông.
CHƯƠNG 6
MỤC SƯ CON (1912-1913)
Mặc dù đại hội bồi linh mùa hè năm 1909 đã qua đi, nhưng ngọn lửa phấn hưng vẫn còn bốc cháy và càng ngày càng lan rộng. Người tin Chúa ngày càng đông. Hạ đi, Thu đến, Đông qua, Xuân lại. Những người được Chúa đưa vào Hội Thánh tăng lên bội phần. Nhà thờ không còn đủ sức chứa. Mỗi ngày Chúa Nhật, những nông dân khắp các làng mạc, từ già đến trẻ cùng mang một tấm lòng thành kính đi lên tỉnh thành để thờ phượng Chúa. Một nhà thờ vốn chỉ có sức chứa bốn hay năm trăm tín hữu, nay phải chứa đến hai hay ba ngàn, quả là cả một nan đề. Nhưng xây một thánh đường có sức chứa hai hay ba ngàn tín hữu không phải là một công việc của một sớm một chiều. Để giải quyết vấn đề, ban tổ chức phải sắp xếp các tín hữu từ các nơi đến, tùy theo xa gần mà chia thành những buổi thờ phượng sáng, trưa, chiều. Như vậy những tín hữu phải băng ngàn vượt suối cũng có cơ hội để về nghe giảng và thờ phượng Chúa. Một ngày phải chia làm 3 suất thờ phượng là một phương thức hay để giải quyết nan đề. Nhưng cách giải quyết ấy quá nhọc mệt cho Mục sư Tống Học Liên.
Cũng may là lúc ấy Chủ Ân lên 12 tuổi và đã giúp đỡ được đôi phần cho cha. Trên thực tế, cậu đã đóng vai trò chấp sự lâm thời của Hội Thánh. Sau 1 năm, một nhà thờ mới trong mơ ước đủ sức chứa hai, ba ngàn tín hữu đã trở thành thực sự. Khánh thành ngôi giáo đường mới, rồi Tống Mục sư lại càng năng nổ hơn nữa vì ông thật sự cảm nhận sự hiện diện của Chúa.
Những thân hào nhân sĩ trong xã hội thấy sự phát triển kỳ diệu của Hội Thánh cũng đã có một cái nhìn khác hẳn. Tri huyện của huyện Hưng Hóa khi có những việc khẩn cấp đều đến với Tống Mục sư nhờ giúp ý kiến. Tuy dánh tiếng và uy tín với xã hội ngày càng lớn, gia đình họ Tống vẫn nghèo như xưa. Lúc ấy Tống Chủ Ân đã lên 13, vừa đi học ở trường trung học vừa giúp cha trong việc phục vụ Chúa tại Hội Thánh. Ngoài việc phát truyền đạo đơn, bán các sánh Phúc âm, cậu Chủ Ân cũng nhiều lúc theo cha vào những làng mạc chung quanh để truyền giảng Phúc âm. Nhiều khi cha bị đau ốm hoặc phải lên tỉnh thành, cậu thay thế cho cha trong việc thờ phượng buổi tối. Dưới sự chứng kiến của vài trăm người, vị “tiểu mục sư” 13 tuổi này, đầy quả cảm, lên bục giảng đạo. Chẳng những thế, cậu không tỏ ra một chút gí lúng túng hấp tấp, nói năng gọn ghẽ khúc triết, thật là một điều đáng quý.
Mỗi năm mùa hè đến là dịp tiện tốt để Chủ Ân hầu việc Chúa. Ánh nắng hè gay gắt không khiến cậu nao lòng. Dưới những bóng mát cây xanh, cậu thường làm chứng cho thân hữu đường lối cứu chuộc của Chúa đối với tội nhân. Những người nghe cảm động ăn năn tin theo Chúa cũng khá nhiều. Điều đó khích lệ, cậu càng hăng say hơn trong sự hầu việc Chúa. Lắm khi cậu đã giảng dưới trời nắng chang chang, mồ hôi nhuễ nhại tràn qua cả chân mày, chảy vào mắt, xót đến độ không thể mở mắt được. Nhưng cậu cũng chẳng quan tâm, lâu lâu dùng 2 tay áo lau trán, rồi lại tiếp tục làm chứng về Chúa. Có lắm khi say mê giảng Phúc âm cậu đã quên cả nhọc mệt, quên cả ăn uống. Mùa hè năm nọ, cậu đến một ngôi làng xa để dạy Kinh Thánh cho gần 200 nhi đồng. Một lần khác cậu đến truyền giảng ở Tỷ Cang Trấn, thuộc vùng cao nguyên có chừng 60 người hối cãi tin nhận Chúa. Cũng vì nóng cháy hầu việc Chúa như vậy nên Chủ Ân đã có biệt danh “Mục sư con”.Âu đó cũng là cách xưng tụng đúng với ý nghĩa. Nhưng sau này hồi tưởng lại, Tống Thượng Tiết cho đó chỉ là những nông nỗi tuổi trẻ, không có sức sống của Chúa. Dụng ý chỉ là muốn nâng cao chính mình, thỏa mãn lòng hiếu thắng, đem vinh dự về cho Cha mà thôi.
CHƯƠNG 7
TỐNG ĐẠI ĐẦU
Tống Chủ Ân khi mói sanh ra đã có 1 cái đầu lớn khác thường. Lớn lên đi học, tất cả các cỡ mũ nón trong tiệm không có cái nào Chủ Ân có thể đội vừa. Nhưng điều này cũng chả có gì quan trọng, vì nếu có 1 cỡ mũ nào vừa, thì gia đình cũng chẳng đủ tiền để mua. Biện pháp giải quyết tốt nhất là Chủ Ân đã để tóc thật dài rồi quấn quanh sọ thành một cái mũ thiên nhiên. Đầu đã lớn lại không cắt tóc nên nhìn lại càng lớn hơn. Các bạn đồng lứa đã dành cho Chủ Ân biệt danh là “Đại Đầu”. Mới đầu cả gia đình chẳng ai thích cái hỗn danh này, nhưng được gọi mãi cũng phải chịu.
Đầu to chẳng những là một dị tướng, mà tâm hồn Chủ Ân cũng rất khác thường. Đầu to, một phần cũng là do di truyền. Mục sư Tống Học Liên có một cố tật là nóng tính, khi cơn giận nổi lên thì la hét, mặt tái như chàm, ai nhìn thấy cũng bắt sợ và tìm cách lấn xa. Tống “Đại Đầu” đã thừa hưởng tánh xấu ấy, khi người cha dạy dỗ hơi quá đáng thì “Đại Đầu” cũng không chịu nhịn. Một lần kia vì 1 chuyện nhỏ mà “Đại Đầu” xúc phạm đến thân sinh. Bị cha phạt, “Đại Đầu” bực tức và trốn mãi trong gầm giường. Sau một thời gian khá lâu người nhà đi tìm đâu cũng chẳng thấy, ai nấy đều rất sợ hãi. Trước đã có 1 lần, tranh cãi với cha, bị cha mắng và phạt, “Đại Đầu” làm bộ nhảy xuống giếng đòi tự tử để dọa cha. Biết đâu lần này lại chẳng xảy ra sự thật? Mãi cho đến khuya Tống “Đại Đầu” mới từ gầm giường bò ra, người nhà mới thở phào trút hết lo âu. Lại một lần nữa, “Đại Đầu” đã làm cha phiền giận. Bị quở mắng, cậu la thét phản đối và dùng đầu húc vào 1 lu nước thật lớn, lu nước vỡ tan, nhưng đầu ‘Đại Đầu” không hề hấn gì. Với một nết xấu như vậy nên Chủ Ân rất thường bị đòn vọt của cha. Một lần kia, sau khi đã cho con một trận đòn nên thân, Tống Học Liên yên lặng vào trong thư phòng. Sau khi bị đòn “Đại Đầu” cũng hiếu kỳ muốn biết cha mình vào thư phòng để làm gì? Qua khe hở cậu ghé mắt nhìn lén vào phòng thì thấy cha đang úp mặt nức nở khóc. Chủ Ân không chịu đựng nổi nên chạy vào và hỏi cha: “Cha ơi, cha đang làm chi đó, tại sao con bị đòn con không khóc mà cha lại khóc?”. Tống Học Liên trả lời: “Đó là lòng thương con mà cha phải phạt con. Chúa yêu chúng ta còn hơn thế nữa!”
Sống trong bầu không khí đạo đức và gia phong như vậy, tuy thỉnh thoảng cũng có tranh cãi to tiếng, nhưng điều quan hệ là trong gia đình rất hài hòa.
Những buổi sáng xuân hồng, những chiều trăng thu, Tống Mục sư không quên đưa các con đi thăm những nơi danh lam thắng cảnh, triển lãm những tác phẩm tuyệt vời của Thượng Đế trong thiên nhiên. Cậu bé Chủ Ân đặc biệt thích cùng cha lên núi để cầu nguyện.
Cả một tuổi thơ Tống Thượng Tiết được lớn lên trong 1 gia đình nho phong, đạo hạch như vậy nên đã có một ảnh hưởng sâu đậm và một ấn tượng không thể nhạt phai trong ký ức.
CHƯƠNG 8
TUỔI TRUNG HỌC (1913-1917)
Tống Thượng Tiết đã thừa hưởng tính đam mê sách vở của cha. Cần kiệm được chút tiền, Tống Học Liên chỉ dùng vào việc mua sách báo, Tống Thượng Tiết triệt để tán thành cha trong việc này. Cậu xin cha đặt mua các loại nguyệt san, tạp chí. Người chống đối triệt để mua sách là bà Mục sư. Gia đình quá nghèo, tiền lương ít ỏi, con cái lại đông. Bà cho rằng đem tiền đi mua sách là phí phạm.
Gia đình Tống Học Liên có thiết lập 1 thư viện tuy đơn sơ nhưng rất tao nhã. Đó chính là nơi đã chiếm nhiều thì giờ trong ngày của Tống Thượng Tiết. Bất luận là sau công việc hay sau giờ tan học ở trường, bóng dáng của cậu lúc nào cũng loay hoay trong thư phòng. Cậu từng nói: “Đọc sách báo là tâm sự với những người bạn tri kỷ.” Cậu đã đọc những tiểu thuyết cổ cũng như kim văn, những truyện ký của những danh nhân, ngay cả những tạp chí phụ nữ. Các bạn bè chế giễu, nhưng cậu chẳng quan tâm mà trả lời họ: “Miễn là sách báo thì tôi đọc!”. Tống Thượng Tiết đắm chìm say mê trong sách báo.
Mục sư Tống Học Liên đọc báo thấy Trường Hải Quân Phước Châu đăng thông cáo tuyển sinh viên, ông hằng khuyến khích con nộp đơn thi vào hải quân. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng: “Trường Hải Quân chắc cũng giống như những trường võ bị khác. Một khi đã thi đậu rồi thì họ sẽ dài thọ tất cả trong suốt thời gian theo học. Nếu mình thi đậu thì cũng bớt cho gia đình một gánh nặng. Các môn thi thì chỉ cần đầy đủ sức khỏe và Hán văn. Hai môn này thì cũng dễ thôi”. Thầy giáo cũng như bè bạn cậu đều khuyến khích, vì họ tin chắc rằng cậu sẽ thi đậu chẳng mấy khó khăn. Nhưng mới vòng đầu khám sức khỏe chân của cậu bỗng nhiên bị sưng. Theo thể lệ đã không đủ tiêu chuẩn sức khỏe thì Hán văn có xuất xắc đến đâu cũng bị loại! Học sinh trong trường có nhiều người ứng thi chung nhưng chỉ có 2 người trúng tuyển. Họ rất lấy làm hãnh diện về thành quả này. Nhưng thương thay, có ai biết được tương lai mình. Hai chàng sĩ quan hải quân này chẳng bao lâu kẻ trước người sau đã tử trận. Những ước vọng thăng quan tiến chức, dĩ nhiên cũng cùng 2 chàng trai đi vào cát bụi. Việc đó có ai ngờ được. Sau này hồi tưởng lại Tống Thượng Tiết đã tạ ơn Chúa không xiết kể.
Không trúng tuyển trường võ bị hải quân, cậu học lại trường cũ, và tiếp tục làm mọt sách. Lúc ấy Trung Hoa Dân Quốc mới vừa thành lập. Để tưởng nhớ những tháng năm sỉ nhục, kỷ niệm những mối quốc hận, và khuyến khích lòng yêu nước của toàn dân, nhà trường đặt ra rất nhiều ngày lễ nghỉ. Tuy không có giờ học nhưng cậu vẫn đến trường, trong những lớp học thênh thang, vắng lặng chỉ một mình mình yên tĩnh ngồi đọc sách. Bạn bè cùng trường, cùng lớp đều cho cậu là người thiếu nhiệt huyết, thiếu lòng yêu nước. Họ thường chế giễu cậu và có người đã cho cậu những biệt danh như “loài động vật có máu lạnh”. Cậu vốn là người cần mẫn, hiếu học nên chẳng để tâm đến những chuyện vụn vặt ấy.
Ở tuồi trung học rồi mà cậu vẫn chưa không chú tâm đến áo quần cũng như diện mạo của mình. Một phần vì tình hiếu học, một phần tình trạng kinh tế gia đình quá eo hẹp. Muốn chưng diện như bạn bè cũng chẳng biết lấy đâu ra tiền. Cho nên suốt thời trung học, cậu luôn là bạn thiết của chiếc áo ngắn và đi chân đất. Lần đầu tiên cậu được mặc áo dài là ngày tốt nghiệp trung học. Cậu ra trường với hạng tối danh dự. Để khuyến khích con, và cũng để con khỏi mất mặt với bạn bè, Tống Mục sư đã mua 1 tấm lụa nhiễu xanh may cho cậu 1 chiếc áo dài. Đó là chiếc áo đại lễ, cũng là chiếc áo dài mà Tống Thượng Tiết dược mặc lần đầu tiên trong đời.
CHƯƠNG 9
THỜI GIAN TRƯỚC KHI DU HỌC
Sau khi tốt nghiệp trung học, việc tiếp tục sách đèn là cả một vấn đề cho gia đình. Tống Thượng Tiết dự định lên thủ đô Nam Kinh vào đại học Kim Lăng. Để chuẩn bị hành trang cho ông, mẹ và chị cả đã lo may áo quần, sắm sửa vật dụng. Trong khi đó thì ông cũng đang có 2 công việc là dịch sách và xuống các làng mạc để truyền giảng Phúc âm. Mục sư Tống Học Liên viết nhật ký rất chuyên cần. Tống Thượng Tiết thừa hưởng thói quen này và ông bắt đầu viết nhật ký vào năm 1917. Cũng như cha, ông viết nhật ký rất chuyên cần, cơm có thể quên ăn, nhưng nhật ký không bao giờ có thể quên viết. Những cộng sự viên sau này của ông đều xác nhận, cho dù bận rộn đến đâu, mỗi ngày ông ít nhất cũng dành ra 1 giờ để ghi nhật ký. Ông ghi chữ rất nhỏ, liên tục ghi lại những chi tiết của đời mình cho đến khi qua đời, không thiếu sót một ngày nào. Đó là những tài liệu quý báu và chính xác, nhưng tiếc thay chính tôi là tác giả “Cuộc Đời Tống Thượng Tiết” này cũng chưa được hân hạnh đọc quyển nhật ký ấy.
Thời gian còn ở trung học, ngoài việc viết nhật ký và lo soạn bài vở của nhà trường, ông đã phụ giúp cha dịch sách bán và viết bài cho tạp chí Phấn Hưng. Ông phụ trách chủ biên nhiều tạp chí trong trường, gửi bài đăng trên nhiều tạp chí địa phương. Thay cha phụ trách chủ biên tờ Phấn Hưng Báo không phải là việc quá sức và xa lạ với ông. Anh rể của ông cũng là người uyên thâm Nho học nên đã giúp ông rất nhiều trong công việc báo chí. Ngoài việc làm báo, ông còn có kế hoạch truyền giảng Phúc âm cho đồng bào tại các làng mạc. Kế hoạch này được các giáo sĩ Tây phương tán trợ. Ông kết hợp cùng những thanh niên đồng tâm tình, mỗi tuần đi vào các thôn làng, trường học, tiếp xúc với các giáo viên, xin phép để cùng các bạn truyền giảng Phúc âm cho các học sinh. Ông kể những câu chuyện trong Thánh Kinh, dạy họ hát Thánh ca tôn vinh Chúa. “Đoàn truyền giáo” cũng dạy cho học sinh những trò chơi vui tươi tao nhã, và tặng cho họ những tấm hình mang ý nghĩa về sự tích Thánh Kinh…
Một ngày kia, đang khi hăng say truyền giảng trong các làng xa thì ông được điện tín báo cho biết là người chị cả bị bịnh dịch tả cấp tính đã lìa đời chỉ trong vòng 3, 4 tiếng đồng hồ. Cái chết của chị là 1 thách thức rất lớn đối với ông. Chương trình dự định lên thủ đô vào đại học Kim Lăng coi như gẫy đổ.
Mỗi buổi sáng, ông một mình lên ngọn đồi gần nhà. Trong cái tịch mịch của thiên nhiên, cô đơn cầu nguyện xin Chúa cho được kinh nghiệm tái sanh. Những cơn gió thoảng trong cây lá, những khóm hoa tươi thắm, tất cả như muốn hướng dẫn ông truy tầm cho bằng được những linh ân từ thiên thượng. Một hôm, ông nhớ lại lời nói của cha: “Cha được tái sanh là nhờ đọc Thánh Kinh thơ La-mã và Phúc âm Giăng”. Ông bắt đầu đọc 2 Kinh sách này. Đọc đi đọc lại đến mấy mươi lần, nhưng ông chẳng thấy có gì đổi mới. Ông bóp trán suy tư: Phải đi vào con đường khổ tu để khắc phục thân xác chăng? Nhưng ông cũng chẳng cảm thấy nhận thêm được những gì mong ước. (Lúc ấy ông chưa ý thức được sức sống mới đến từ Chúa Thánh Linh, và thời điểm đó phải do Chúa kiểm soát và định đoạt chứ không phải do nơi ý muốn của con người).
Tuy rằng kế hoạch vào đại học gần như gãy đổ do cái chết của người chị cả, nhưng ý chí và tinh thần hiếu học của ông không gì cản nổi. Vấn đề khó khăn là lúc ấy những biến chuyển chính trị đang bị khơi động khắp nơi. Nhất là các trường học, các sinh viên thường sách động bãi khóa. Nếu không bãi khóa thì sinh viên cũng chẳng còn tinh thần mà học hành. Giáo sư, sinh viên ai cũng muốn tham gia chính trị, không mấy ai còn nghĩ đến chuyện học hành hay dạy dỗ. Mọi nơi, mọi trường đều bế tắc như nhau! Tống Thượng Tiết nảy ra ý định du học nước ngoài. Ý định này thật là xa vời. Hoàn cảnh gia đình túng quẫn. Vào 1 đại học ở thủ đô Nam Kinh đã là 1 gánh quá nặng cho gia đình, làm sao có thể nghĩ đến việc xuất ngoại du học? Do đó khi ông đem ý định này ra bàn với cha thì liền bị cha quở trách: “Đừng có mơ mộng hão huyền, con tưởng cha có nhiều tiền của để con có thể ra nước ngoài tiến thân mưu tìm danh vọng sao? Con không biết cha là ai sao? Cha chỉ là một mục sư nghèo!”. Lời quở trách này cũng không làm cho Tống Thượng Tiết buồn. Cha trên đất không ủng hộ, thì cầu Cha trên trời vậy. Ông bèn lên núi, trình xin với Cha trên trời ý nguyện du học nước ngoài. Ông cũng trình bày rõ là xuất ngoại du học là để suốt đời phục vụ Chúa. Ông kiên nhẫn cầu nguyện như thế khoảng 1 tuần. Quả thật Cha trên trời là Đấng quyền năng, có đầy đủ biện pháp. Ông nhận được 1 thư của Miss Kans do 1 giáo sĩ Tây phương trao lại. Trong thư cô tỏ ý là có nghe Tống Thượng Tiết có ý định muốn xuất ngoại du học, nhưng vì tình trạng kinh tế gia đình eo hẹp, nên không thể thực hiện được ý nguyện. Cô cũng biết Tiết là 1 thanh niên hiếu học, nên cô tình nguyện giúp đỡ bằng cách viết thư cho trường Ohio Wesleyan University, tại thành phố Delaware. Cô xin trường cho Tiết 1 học bổng và cũng hứa rằng sau khi Tiết đến Hoa Kỳ, cô sẽ giúp tìm 1 việc làm bán thời gian để có thể vừa học vừa làm.
Nhận được bức thư này ông hết lòng cảm tạ Chúa. Vừa múa tay chân, vùa sung sướng báo tin mừng cho cha, nhưng Tống Mục sư vẫn nhẹ nhàng bảo: “Cha quả tình không có khả năng để cho con xuất ngoại du học. Con phải biết là cha làm người truyền đạo hơn 30 năm nay, tất cả tiền dành dụm chưa tới 100 đồng! Cho dẫu là cha mẹ cho con tất cả thì cũng chưa đủ được nửa tiền cước phí! Gia đình ta thì phải xoay trở cách khó khăn, cha thật hết lòng mong con đi du học, nhưng khả năng hoàn toàn bị hạn chế”. Những lời tâm sự hợp tình hợp lý của cha, chẳng khác nào 1 gáo nước lạnh tạt vào mặt. Suy nghĩ mông lung, ông lại trở nên núi để cầu xin thêm sự tiếp trở của Cha toàn năng. Những bạn học cùng tốt nghiệp với Tống Thượng Tiết có người đã đi làm, cũng có người đã ra giữ chức vụ truyền đạo. Họ là những học trò của Mục sư Tống Học Liên. Nghe bạn có chí đi du học, với ý định sau khi tốt nghiệp trở về nước để lo hầu việc Chúa, họ rất vui mừng. Họ cũng biết gia đình Tống Mục sư không đủ khả năng tài chánh, nên đã hết lòng vui vẻ hùn nhau lại kẻ ít người nhiều cho bạn mượn để làm lộ phí. Góp gió thành bão, chẳng mấy chốc đủ tiền mua vé tàu.
Ai cho mượn bao nhiêu, Tống Thượng Tiết đều ghi vào sổ rõ ràng, định bụng sau này khi đến Mỹ, tìm được việc làm, ông sẽ dành dụm gửi về dần dần trả nợ cho bạn bè.
Đúng lúc mua vé tàu thì đồng mỹ kim xuống giá nên số tiền bạn bè góp lại cho mượn, chẳng những đủ tiền mua vé tàu mà còn dư để may 1 bộ âu phục, và mua một số hành trang cần thiết trước khi lên đường.
Tống Thượng Tiết ra đi nhằm mùa Xuân, ngày 10 tháng 3 năm 1919. Trong chuyến đi ấy cũng có 7 sinh viên cùng quê với ông.
CHƯƠNG 10
VƯỢT THÁI BÌNH DƯƠNG (1919)
Ngày Tống Thượng Tiết rời quê hương Hưng Hóa lên đường xuất ngoại nhằm lúc Tống Mục sư có việc gấp phải ra tỉnh thành nên không có dịp tiễn đưa. Chỉ có mẹ ở nhà, bà đã âu yếm nắm lấy tay con dặn dò và trao gửi những lời tâm huyết. Người anh đưa tiễn ra tận bến tàu và giúp đỡ những việc cần thiết. Tuổi trẻ, lần đầu tiên xa gia đình, xa quê hương, Tống Thượng Tiết không tránh khỏi bịn rịn, lưu luyến. Nhưng niềm hy vọng như vầng dương rực sáng đưa lối dẫn đường, nên nỗi buồn biệt ly cũng sớm được xua tan. Qua vài ngày chiếc tàu nhỏ đã đến Thượng Hải, 1 thành phố tráng lệ, xa hoa. 7 người bạn đồng hành của ông đều là con của những gia đình giàu có, nên thời gian chờ đợi ở Thượng Hải mặc sức cho họ ngày ngày đi đến những chốn ăn chơi, đi xem xi-nê, đến các hí viện… Riêng ông thì không bước ra khỏi phòng của khách sạn. Chẳng những không đến những nơi du hí, mà ngay cả những cửa hàng danh tiếng như như hãng Sincere và hãng Vĩnh An, ông cũng không đặt chân đến. Suốt ngày ở trong khách sạn đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, đọc sách báo, viết nhật ký, không có gì khác hơn những sinh hoạt thường ngày sống trong gia đình ở quê nhà. Vào ngày mưa, 7 chàng sinh viên con nhà giàu đó không ra ngoài đi du hí được, họ đem Tống Thượng Tiết ra làm đề tài giễu cợt chê ông là một người quê mùa.
Thật ra thì Tống Thượng Tiết cũng đã từng tuyên bố: “Tôi vốn quê mùa, không biết đến các lạc thú của kinh thành”. Ông nghĩ đến tiền lộ phí là do vay mượn mà có thì làm sao phung phí, tiêu xài như những con nhà giàu kia được. Ngày 20 tháng 3, chiếu tàu Nero, nhổ neo hướng về Mỹ quốc. Để không bị nhìn như những người đi lao động khổ sai khi nhập cảnh Mỹ quốc, buộc lòng Tống Thượng Tiết phải mua vé tàu thượng hạng $240.
Khi con tàu vào hải phận quốc tế thì bắt đầu lắc lư theo nhịp sóng. Tất cả những bạn đồng hành đều bị say sóng, riêng ông rất tỉnh táo, một mình lên boong tàu. Biển xanh bao la, bầu trời lông lộng quang đãng, lòng ông lúc nào cũng khấp khởi mừng vui, luôn ca ngợi Đấng sáng tạo nên vạn vật và vũ trụ này. Những buổi chiều xuống, ông đi dạo trên boong tàu, nhìn cảnh mặt trời lặn chìm trong sóng biển nhấp nhô xanh biếc, áng chiều tạo thành những thảm gấm tuyệt vời trên không trung. Tựa vào thành tàu nhìn cảnh hùng tráng của mặt trời chiều trên đại dương mà hai dòng nước mắt tuôn trào. Không phải vì cô đơn xa nhà, xa quê hương, cũng không phải vì chia ly tình phụ mẫu, huynh đệ, cũng không phải ưu tư về tương lai mịt mờ, nhưng vì nghĩ đến bao nhiêu ân điển rộng của Thiên Chúa mà ông tuôn dòng lệ ấm.
Vốn xuất thân trong một ga đình nghèo khó nên khi ở trong phòng thượng hạng của con tàu chở hành khách này là dịp ông được sống những ngày chưa bao giờ được hưởng trong cuộc đời. 7 người bạn đồng hành vì say sóng nên không thể dậy để dùng bữa. Một mình ngồi trên bàn ăn dành cho 8 khẩu phần, ông tha hồ chọn những thức ăn mình ưa thích. Ngoài ra còn có 2 người bồi phòng hầu hạ trong suốt thời gian lênh đênh trên biển.
Sau khi đến Mỹ quốc, giá vàng bỗng lên cao, Tống Thượng Tiết bán số vàng còn lại trị giá được $246. Ông chỉ để lại $6 cho mình làm phí tổn, số còn lại gửi về cho cha để trả nợ cho bạn bè. Thật kỳ diệu, khi ra khỏi nước thì giá vàng xuống, nay đến đất Mỹ thì giá vàng lại lên cao. Số tiền $240 chẳng những thanh toán xong nợ nần, mà lại còn dư. Thật đáng ngợi khen Chúa vì sự sắp đặt của Ngài!
Trả xong nợ nần, Tống Thượng Tiết đề nghị người anh cũng nên qua Mỹ học.
CHƯƠNG 11
TRƯỚC VÀ SAU KHI VÀO TRƯỜNG
ĐẠI HỌC (1919-1921)
Khi đến Mỹ, Tống Thượng Tiết cảm thấy một nỗi cô đơn xâm chiếm. Nhất là tiếng Anh chưa thông thạo, phát âm không chính xác, đi đến đâu cũng gặp khó khăn. Thứ đến là cuối tháng Tư mới nhập học ở Tiểu bang Ohio. Sau khi hỏi thăm mới biết Miss Kans đang ở Bắc Kinh chưa về Mỹ nên không tìm được ai quen biết. Trường Wesleyan University thật có dành cho Tống Thượng Tiết một học bổng, nhưng ông không thể vào ở ký túc xá nhà trường ngay được. Mướn phòng ở ngoài thì mỗi ngày phải tốn 1 Mỹ kim, mà trong túi chỉ còn có 6 đồng. Làm sao có thể kham nổi?
Cách giải quyết duy nhất là phải tìm 1 việc làm. Nhưng tìm việc không phải là dễ nơi đất lạ quê người. Trong rừng người mênh mông đó, biết xin việc với ai, mà xin việc gì đây? Lúc ùng đường thì ông gặp được người thư ký của hội YMCA. Muốn nhờ ông ta giúp đỡ nhưng vì tiếng Anh chưa nói thông, nên người thư ký ấy không hiểu Tiết muốn gì. Đến với con người để xin và nhờ cậy chẳng được chi., Tiết trở lại xin với Thiên Chúa. Ngài bèn sắp xếp cho ông được làm ở một tiệm bán vải, lau sàn nhà, chùi cửa kiếng… lương mỗi giờ là 1 đồng. Theo quan niệm của người Á Đông, nhất là người Trung Hoa, đó là một việc rất thấp kém trong xã hội. Do đó ông rất sợ phải lau những cánh cửa ngoài mặt tiền. Sợ những bạn cùng trang lứa bắt gặp, nhất là những thiếu nữ đi ngang cửa tiệm. Về sau ông tìm được một việc ban đêm tại hãng Westinghouse, mỗi giờ đước 45 xu, mỗi đêm làm 11 giờ, mỗi tuần làm 5 ngày rưỡi thì được 27 đồng. Trừ tiền ăn ở, số còn lại cũng chẳng được bao nhiêu. Mỗi tháng tính ra chỉ còn khoảng 80 đồng, không đủ để chi tiêu sau khi tựu trường.
Tống Thượng Tiết tiếp tục cầu nguyện và tin tưởng Chúa toàn năng chắc chắn đã có một chương trình cho mình. Trong khi làm việc trong nhà máy, ông thường hát những bài hát Trung Hoa để giải khuây. Những công nhân cùng hãng, trắng cũng như đen đều lắng tai nghe, họ rất thích thú và không thấy mệt mỏi khi làm việc. Một ngày kia, những điệu nhạc ấy lọt vào tai của ông giám đốc. Ông ta mời Tống Thượng Tiết về nhà và yêu cầu hát 1 ca khúc Trung Quốc. Sau khi hát, ông ta rất thích thú, 2 người bắt đầu chuyện trò để hiểu nhau hơn. Ông giám đốc hỏi lý cớ nào mà chàng đến Mỹ. Tiết cung kính tâm sự: “Tôi vốn là một Cơ-đốc nhân, ao ước đến Mỹ để học, sau khi thành đạt trên đường học vấn tôi sẽ về Trung Quốc để truyền bá Phúc âm. Nhưng hiện nay vì hoàn cành khó khăn cho nên phải xin việc làm để tự lập và dành dụm tiền học cho cả niên khóa. Viên giám đốc kiên nhẫn nghe hết câu chuyện Tiết kể, ông suy nghĩ giây lâu rồi nói: “Bây giờ tôi có thể giao cho anh đứng máy cắt thép số 93, tiền lương mỗi giờ là $1. Nhưng công việc ấy khá nguy hiểm, máy cắt thường tiện cắt đứt chân tay những người điều khiển nó”. Viên giám đốc chưa dứt lời thì Tiết đã vui xin nhận việc đó.
Mùa hạ trôi qua, Tống Thượng Tiết dành dụm được đúng $600, đủ tiền cho lục cá nguyệt đầu của năm học. So với các bạn đồng lứa thì chưa ai có lương cao như vậy. Ông tin quyết rằng đó là phần thưởng Chúa đã dành ban cho mình, để ông yên tâm trong việc học hành. Đức tin cửa ông còn được thể hiện qua nhiều việc khác nữa: Ngày tựu trường, Tống Thượng Tiết đến tìm và xin gặp ông giám học thỉnh cầu một việc rất dị thường.: xin trong vòng 3 năm sẽ học hết những môn của Đại Học. Ông giám học nghe xong chỉ biết lặng yên nhìn Tiết mà lắc đầu: “Với trình độ Anh ngữ của cậu kém chưa chắc 5 năm nữa cậu đã học xong chương trình đại học”.
Sự thật hoàn toàn trái ngược với suy nghĩ của ông giám học. Ngay kì thi đầu, Tiết đã có số điểm cao nhất lớp. Nhất là môn thiên văn học, nhiều sinh viên bị rớt vì dưới điểm trung bình, cũng có người lãnh điểm 0. Riêng Tiết đã có số điểm rất cao, khiến mọi người phải ngạc nhiên thán phục. Các vị giáo sư sau khi thảo luận với nhau đã nói với Tống Thượng Tiết: “Nếu cứ cố gắng, chắc 3 năm sau anh có thể ra trường”.
CHƯƠNG 12
TRONG CƠN BẠO BỆNH VÀ NGHÈO NÀN
(1921)
Năm 1921, sau thế chiến thứ I, nước Mỹ lâm vào một tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Nhiều nhà máy phải đóng cửa, công nhân thất nghiệp ngày càng đông. Thế nên mùa hạ của niên học thứ nhì Tống Thượng Tiết đi tìm việc làm thật khó khăn. Đồng thời, anh của ông là Tống Thượng Liên cũng đã đến Mỹ để du học. Bản thân mình lo chưa xong lại còn phải lo tìm việc cho anh. Khó quá nhưng ông đã hoàn toàn tin cậy Chúa với cả đức tin mình.
Quả nhiên, Chúa đã nhậm lời: chẳng những người anh có việc làm mà chính ông cũng tìm được 2 việc, một ở khách sạn, một ở nhà máy cán thép. Đây là một công việc vô cùng nặng nhọc, nhưng vì sinh kế và học phí, nên Tiết cũng phải ráng sức chịu đựng. Sau vài ngày làm việc, vì cố gắng quá sức, Tiết bỗng cảm thấy choáng váng, nhịp tim đập liên hồi, thân nhiệt lên cao quá độ và đầu đau nhức như búa bổ. Dầu vậy Tiết vẫn gắng gượng đi làm thêm 2 ngày nữa nên bệnh lại càng thêm trầm trọng, buộc lòng phải xin nghỉ phép để vào bệnh viện. Khám nghiệm thấy trên mông của cậu có 1 mụn nhọt lớn. Bác sĩ cho biết nếu không giải phẫu thì có thể nguy hiểm đến tính mạng. Thật là một nan đề, làm sao có tiền để trang trải sở phí bệnh viện, thuốc men và nhất là tiền giải phẫu của bác sĩ đây? Cuối cùng ông từ chối giải phẫu, rời bệnh viện và chỉ còn biết bám vào lòng thương xót của Chúa. Nếu Ngài muốn ông chết, thì ông xin tuân phục, chứ không thể đào đâu ra tiền để thanh toán tổn phí bệnh viện và bác sĩ.
Sau mấy ngày, cơn đau nhức lại hành hạ thể xác Tiết không sao chịu đựng nổi. Bạn bè thúc giục, nài nỉ, cậu đành phải trở lại bệnh viện để chịu giải phẫu, còn chuyện tiền bạc thì hạ hồi phân giải. Trước khi vào phòng giải phẫu, cậu xin y tá giấy bút để viết cho cha 1 bức thư cuối cùng, vì nghĩ rằng, có thể mình không qua được cơn giải phẫu. Khi không còn một vương vấn nào nơi trần gian, Tống Thượng Tiết thấy tâm tư mình nhẹ nhàng thanh thoát, hoàn toàn nương mình trong cánh Chúa.
Khi thuốc mê đã hết tác dụng, Tống Thượng Tiết dần dần hồi tỉnh, ý nghĩ đầu tiên đến với chàng là: “Lấy đâu ra tiền để trả bệnh viện?”. Dầu chàng được 1 y tá đầy kinh nghiệm niềm nở chăm sóc bệnh nhân, lại cũng là 1 con cái Chúa, nhưng không thể đưa chàng ra khỏi vòng suy tính số tiền phải trả bệnh viện.
Một ngày nọ, Tống Thượng Tiết đang tựa lưng trên giường bệnh, đang lo âu cho số phận không may của mình thì có một nhóm thanh niên ào vào phòng… Người thì mang hoa tươi, kẻ thì xách cây trái, ai nấy đều cười nói vui vẻ, rối rít thăm hỏi bệnh tình. Họ là những thanh niên của Hội Thánh mà Tiết thường đến thờ phượng chung. Có cả ông Mục sư quản nhiệm Hội Thánh nữa. Tống Thượng Tiết vô cùng xúc động trước tấm thịnh tình nồng hậu đó, không cầm được 2 dòng nước mắt hạnh phúc. Một mối tình ruột thịt trong Cứu Chúa đã dâng trào trong họ và tình thương của Ngài đã san bằng biên giới quốc gia, chủng tộc.
Sau những giây phút mừng vui thăm hỏi ân tình ấy, thì thực tại tiền bạc lại trở về quấy phá. Tuy vết thương chưa lành hẳn, nhưng ông nghĩ rằng nên xuất viện càng sớm càng tốt. Thời gian dưỡng bệnh sau giải phẫu đáng lý là 1 tháng, nhưng mới 2 tuần ông đã rời bệnh viện. Khi ông từ biệt bác sĩ để ra về, ông cảm thấy thật xấu hổ vì không có tiền để thanh toán cho bệnh viện. Xót thương cho hoàn cảnh nghèo túng của mình, ông không cầm được 2 dòng nước mắt.
Vị bác sĩ đầy kinh nghiệm chứng kiến cảnh ấy, biết được tâm trạng thầm kín khó nói của chàng, nên đã vỗ vai và an ùi: “Người bạn trẻ ơi, đừng quá bận tâm về tiền bạc. Bệnh viện chỉ lấy 80% tổng số tiền phí tổn, và số tiền ấy cũng chỉ có $30 thôi. Vả chăng cũng đã có một tín hữu hảo tâm được Chúa Thánh Linh thúc giục đã thanh toán xong số tiền ấy rồi. Bây giờ bạn có thể ra về mà khỏi phải bận tâm. Cầu xin Chúa ban phước lành cho bạn”. Nghe xong những lời ấy của bác sĩ, Tống Thượng Tiết cảm thấy như gánh nặng ngàn cân vừa cất khỏi vai mình. Ông có cảm tưởng như có thể nhón nhẹ gót là đụng đến trần nhà, lòng tràn đầy vui sướng và cảm kích, không ngớt cám ơn Chúa và vị ân nhân ẩn danh đó. Ông khập khiễng bước ra khỏi bệnh viện. Vết thương đó đã không bao giờ khỏi hẳn suốt cuộc đời ông. Thỉnh thoảng nó khiến ông đau đớn, nhức nhói khó chịu. Về sau, chính ông đã tâm sự: “Nhiều khi tôi có nài xin Chúa cất bớt cho tôi sự đau đớn, nhưng Ngài không khứng nhậm lời. Tôi biết Chúa dùng điều này để dạy đỗ tôi. Vì mỗi khi đau, nhức nhói là như một lời nhắc nhở: Tôi vốn một con người bất toàn, xấu xa, gian ác, kiêu ngạo, bất lực”.
CHƯƠNG 13
KHẢI TƯỢNG NĂM 1922
Mặc dù tình trạng sức khỏe rất yếu kém và tiền bạc thật eo hẹp, nhưng Tống Thượng Tiết vẫn không để nó ảnh hưởng trên việc học. Ngược lại, chàng càng cố gắng nhiều hơn nữa.
Thấm thoát 1 niên học nữa lại trôi qua, Tống Thượng Tiết vẫn chiếm ưu hạng. Một sinh viên ngoại quốc, công việc mưu sinh chiếm mất một nửa thời gian đèn sách, ấy thế mà ông vẫn đạt được thành quả rất tốt đẹp. Thật là một điều đáng kinh ngạc khiến nhiều người phải thán phục. Nhưng, ông thì cho rằng mình có được năng lực này là do sự ban cho từ trên cao.
Những ngày lễ nghỉ, ông tổ chức những cuộc truyền giảng, mời các bạn cùng trường, cùng lớp tham gia. Ra các vùng ngoại ô thành phố rao giảng Phúc âm cho người chưa biết Chúa. Dưới mắt nhìn của ông thì nông dân Mỹ là những người trung hậu, chất phác, hiền hòa. Họ cần được nghe Phúc âm và sống đời dống của Chúa Cứu Thế. Dân chúng vùng ngoại ô cũng rất thích được nghe những buổi truyền giảng của Tống Thượng Tiết tổ chức. Số người tin nhận Chúa ngày càng đông. Báo chí Mỹ bắt đầu chú ý và đăng tải những mẩu chuyện về các buổi truyền giảng đó. Tên tuổi của ông, trước kia được nhiều người biết đến qua những tạp chí tại huyện Hưng Hóa, nay bắt đầu xuất hiện trên các báo chí Mỹ.
Các Đoàn Truyền giáo Phúc âm, được các tín hữu trong những thôn làng chân thành, nồng hậu tiếp đón và họ cũng cung ứng cho đoàn mọi nhu cầu thật chu đáo. Những tấm thịnh tình này khiến cho Tống Thượng Tiết thật vô vùng xúc động và ấm lòng. Một ngày kia, ông gặp một đôi vợ chồng, nếp sống tin kính của họ đã gây cho chàng một ấn tượng sâu sắc. Họ thật sự tôn Chúa Giê-su làm chủ gia đình. Người vợ là một phụ nữ trầm lặng, nhưng vui vẻ, lịch thiệp nói năng dịu dàng. Ông đã đặt cho bà này mỹ danh “Cây phong lan trong thung lũng tĩnh lặng”. Còn người chồng là một tín hữu trung kiên, có đời sống tâm linh sâu nhiệm Lời Chúa. Tiếp xúc qua 1 lần, Tống Thượng Tiết đã có nhận xét ông ta còn hơn cả những vị Mục sư hữu danh vô thực, không có sức sống của Chúa bên trong. Hai ông bà chỉ có 1 bé gái thật linh hoạt dễ thương. Điều khiến cho Tống Thượng Tiết chú ý hơn cả là mỗi tối trước khi đi ngủ, cô bé đều quỳ gối cầu nguyện bên giường.
Lễ Tạ Ơn năm nọ, dân chúng làng Smithview mời đoàn truyền giáo Phúc âm của Tống Thượng Tiết đến truyền giảng. Đêm ấy, sau khi truyền giảng xong, đoàn tá túc trong gia đình của một tín hữu. Cũng chính đêm ấy Chúa cho ông một khải tượng kỳ diệu, và ông tin quyết rằng điều mà Chúa cho ông thấy thì Ngài cũng muốn ông phải thực hiện. Trong giấc ngủ mơ màng, ông thấy mình đang lang thang trên một vùng đồi núi, cảnh trí giống hệt như miền Đông tỉnh Hưng Hóa, nơi ông thường tới lui để cầu nguyện khi còn ở quê nhà. Đang chìm đắm trong suy tưởng của tịch mịch núi đồi, bỗng ông nghe những tiếng kêu cứu thất thanh từ dưới đáy vực vang lên. Từ trên cao nhìn xuống, ông thấy một dòng suối cuồn cuộn chảy, và xa xa có những người đang chới với, kêu van vì sắp chết đuối. Tống Thượng Tiết băng mình xuống triền núi để kịp thời cứu họ, đường đi thật gập ghềnh, hiểm trở, bụi hoang và gai góc giăng mắc khắp lối. Khi ông đến được chân núi thì mình mẩy mang đầy thương tích, máu me tuôn ra xối xả. Đứng trên bờ, nhìn con suối nhỏ, nước suối từ từ dâng lên, lan rộng mãi ra, biến thành một dòng sông lớn, rồi lớn mãi thành một đại dương bao la. Trong đại dương ấy lố nhố đủ mọi loại hạng người, mọi chủng tộc, mọi sắc dân… Họ đang chới với, đắm chìm và cất lên những tiếng kêu cứu thật bi thương thê thảm. Nhìn qua bên kia đại dương chỉ thấy mịt mùng, không bờ, không bến. Dưới lòng đại dương bỗng dâng lên những cơn sóng cuồng nộ, giận dữ như muốn cuốn phăng cả đám người đáng thương ấy đi. Ông cố gắng tìm hết mọi phương cách để cứu những con người vô vọng đó, nhưng vô phương. Trong lúc bó tay chưa thể nghĩ ra được một phương cách cứu vãn, tiếng kêu than vọng lên càng lúc càng khẩn khoản, bi ai. Nóng lòng muốn cứu họ, Tống Thượng Tiết vô cùng bối rối, ông khẩn nguyện cùng Cứu Chúa: “Chúa ôi, con xin tuân theo lệnh Ngài, xin giúp con để cứu những người đang chìm ngập trong biển mênh mông này”. Ông bỗng nhiên thấy mình trở thành một đứa trẻ thơ, đồng thời cũng là một tội nhân. Tay chân, mình mầy bị những dây xích vàng, xích bạc quấn chặt lấy. Ông cố gắng bước tới nhưng không sao dở chân lên được. Hình như phía sau có những người cầm những dây xích ấy kéo giật ngược lại, ông hoàn toàn thất vọng. Rồi ông thấy một con chim ưng từ một vùng trời nào xa xăm bay tới, ngày càng to, ngày càng lớn, xà xuống đậu trên đầu ông. Nhìn kỹ lại thì không phải là chim ưng, mà là một cây thập tự nhuộm máu đỏ. Trên cây thập tự có khắc một dòng chữ: “Ngước nhìn thập tự, hướng trước mà chạy”.Cây thập tự bỗng lìa khỏi đầu ông, vút bay đi, xé gió rít vang như một tấu khúc khải hoàn của những chàng dõng sĩ. Những xiềng xích trên người ông bỗng đứt lìa và rơi rụng xuống đất. Ông thấy nhẹ nhàng thanh thoát, lướt nhanh về phía trước để cứu những người đang bị dạt trôi đi ấy. Đang khi ông còn hơi chần chờ, thì bỗng nhiên thấy mình bập bềnh giữa biển cả mênh mông. Ông thôi không còn sợ hãi mà quyết một lòng sống chết với những người đang đắm chìm trong đại dương. Khi thấy mình cũng chung số phận sắp chết đuối như họ, ông liền kêu cầu cùng Chúa xin tiếp lấy linh hồn mình. Tiếng nguyện cầu vừa dứt, ông thấy như chân mình chạm đất, liền đứng thẳng dậy, thì ra mình đang đứng trên cây thập tự nhuộm hồng đó và bay đi như một con chim ưng rồi, đáp đậu ngay giữa đại dương. Cây thập tự như một thanh nam châm vĩ đại, có lực hút tất cả những người đang chới với trong đại dương. Những ai trôi dạt đến gần đều được cây thập tự hút lấy, mọi xiềng xích trên mình họ đều bị bứt đứt và rời ra. Cây thập tự nằm ngang trên mặt biển, rồi lớn dần, lớn dần. Số người đứng trên cây thập tự ngày càng nhiều, nhiều đến độ không thể đếm được nữa. Cây thập tự càng lớn, càng che khuất diện tích của đại dương và khiến cho đại dương biến mất, chỉ còn lại một nền tảng vững vàng như núi đá, là cây thập tự với hàng triệu, triệu người đứng trên ấy.Cảnh trí chung quanh bấy giờ trở nên huy hoàng, rực rỡ khiến Tống Thượng Tiết vô cùng hạnh phúc. Rồi ông nghe một tiếng kèn vang lừng trổi lên và nơi ấy biến thành một khu vườn với bốn mùa tươi thắm quanh năm, người người vui thỏa, luôn cất tiếng ca ngợi Chân Thần. Tống Thượng Tiết thấy mọi người đến bắt tay mình. Nhìn kỹ lại thì ông thấy đó là những bà con ruột thịt, bạn bè thân thiết, đồng bào máu mủ thân yêu. Tống Thượng Tiết vô cùng sung sướng, múa tay, vung chân… suyết chút là đá nhằm phải người bạn đồng liêu Smith đang nằm bên cạnh.
Sáng hôm sau, Tống Thượng Tiết kể lại khải tượng cho các bạn trong Đoàn, mọi người đều bàng hoàng cảm động. Riêng ông thì ghi khắc giấc mộng ấy vào tâm khảm và tin chắc rằng đó là khải tượng Chúa ban cho, một ấn chứng cho suốt cuộc đời phục vụ Chúa của mình sau này. Khi còn ở trên đất Mỹ cũng như lúc đã trở về Trung Quốc hay bất cứ một nơi nào, mọi người được nghe ông thuật lại giấc mộng khải tượng lạ lùng ấy đều không tránh khỏi bồi hồi xúc động. Giấc mộng ấy là một ấn tượng sâu sắc không thể nào phai nhòa trong trí nhớ. Mỗi khi có dịp là ông lại chia sẻ khải tượng thiêng liêng ấy.
CHƯƠNG 14
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC TRONG VINH DỰ 1923
Năm cuối cùng của đại học cũng là năm Tống Thượng Tiết bận rộn nhất và nghèo ngặt nhất. Cùng túng vì ảnh hưởng của cơn khủng hoảng kinh tế Hoa Kỳ lên đến cao điểm sau Thế Chiến thứ I. Phần lớn các hãng xưởng đều bị phá sản và phải đóng cửa, nạn thất nghiệp lan tràn. Để duy trì sự sống và có thể tiếp tục được việc học, Tống Thượng Tiết phải chấp nhận những công việc nặng nề, vất vả nhất mà thù lao lại thật là khiêm nhường.
Khóa học sắp mãn, bài vở chất chồng, thi cử dồn dập. Riêng ông lại càng bận rộn hơn những sinh viên khác vì phải cố gắng rút ngắn thời gian cả chương trình 4 năm thành 3 năm. Ông phải luôn thức thật khuya, dậy thật sớm để thanh toán cho xong bài vở. Công việc nặng nhọc, bài vở nhiều, sức khỏe kém dần và tinh thần càng ngày càng sa sút làm ông rất dễ nóng giận vô cớ.
Trong thời gian bị dồn nén vì công việc và bài vở này, đã xảy ra 3 việc thật đáng tiếc khiến ông đau xót và ân hận suốt đời. Ông cho đó là những vết nhơ trong cuộc đời mình.
Thứ nhất là cung cách cư xử thiếu lễ giáo của ông với anh mình. Hai anh em ăn chung, học chung. Nhưng vì ông thông minh, học giỏi hơn nên sinh lòng kiêu căng, tự mãn. Tất cả các việc bếp núc, chén bát, dọn dẹp đều phó mậc cho người anh, còn mình thì chẳng hề đụng đến ngón tay. Đôi khi cơm không ngon miệng, nhà cửa không vén khéo, ông không vừa ý còn la rầy anh. Người anh, vì còn cần phải nhờ vả đến em trong việc học hành nên đành phải nhịn nhục, nín chịu. Nhưng Tiết càng ngày càng tỏ ra quá quắt, người anh không còn nhịn được nữa, nên anh em đã có cuộc cãi vã to tiếng. Về sau cảm thấy lỗi lầm hoàn toàn thuộc về mình, ông vô cùng hối tiếc. Ông đã xin lỗi và làm hòa với anh.
Thứ hai là việc không ngay thẳng trong lúc thi cử. Trong các kỳ thi tại các trường đại học ở Mỹ thì không có giám thị. Khi nhận được đề thi thì thí sinh chỉ việc làm bài. Làm xong, trước khi nộp, mỗi người phải viết vào bài của mình dòng chữ: “Có Chúa chứng kiến, tôi đã làm bài thi một cách ngay thẳng, không gian lận”. Xong, viết tên vào bài của mình và nộp. Trong vòng sinh viên, thì cũng đủ thành phần, dĩ nhiên cũng có nhiều người đã không ngay thẳng trong việc thi cử. Riêng với Tống Thượng Tiết thì từ các lớp tiểu học, rồi trung học, đại học không bao giờ gian lận trong khi thi cử. Nhưng kì thi mãn khóa ra trường này thì ông đã không giữ được sự ngay thẳng cố hữu của mình. Dưới mắt nhìn của nhiều sinh viên thì việc này cũng bình thường thôi, nhưng đối với ông thì đây là một tội lỗi không tha thứ được.
Thứ ba, vì tình trạng kinh tế vẫn khó khăn, và bài vở quá bề bộn, nên ông cũng thường khai thêm giờ làm ở sở. Thêm giờ làm thì lãnh lương được nhiều hơn. Về sau, ông đã ăn năn, và đã đi làm bù lại những giờ đã khai man đó.
Đúng như dự định, Tống Thượng Tiết đã hoàn tất chương trình đại học 4 năm trong vòng 3 năm. Niên khóa ấy có chừng 300 sinh viên tốt nghiệp, trong số đó chỉ có 20 sinh viên dậu tối ưu, đa số là phái nữ. Duy có ông và 3 nam sinh viên khác đậu văn bằng cử nhân danh dự mà thôi. Mỗi ngành học đều có phần thưởng bằng hiện kim cho sinh viên xuất sắc. Tống Thượn Tiết được phần thưởng về ngành khoa học vật lý. Nhiều người rất kinh ngạc vì chàng là một sinh viên nghèo, vừa làm vừa học, mà đã hoàn tất chương trình đại học 4 năm trong vòng 3 năm, lại ra trường với cấp bằng danh dự. Báo chí Mỹ đua nhau đăng tải tin này, nhiều tờ đã không ngần ngại đăng cả hình của ông lên với tựa lớn ở trang đầu. Nhiều tờ báo ở Châu Âu cũng đăng tải nguồn tin hấp dẫn này.
CHƯƠNG 15
SAU KHI TỐT NGHIỆP MÙA HÈ 1923
I. KHẢI TƯỢNG TRONG TRẠI HÈ
Xong cử nhân, Tống Thượng Tiết rời mái trường với nhiều kỷ niệm vui, buồn. Vấn đề được đặt ra cho ông bây giờ là làm sao tìm ra được một con đường thích hợp. Nỗi khó khăn bây giờ của ông không phải là đối diện với một ngõ cụt không lối thoát. Ngược lại, ông đứng giữa một ngã tư đường, mà lối nào cũng đầy hoa gấm gọi mời. Thật khó nghĩ, không biết phải chọn lối nào trong 4 lối:
Một đại học ở Minnesota, mời ông làm phụ tá cho trưởng phòng thí nghiệm hóa học, được trả lương hằng năm là 700 mỹ kim.
Một nhà hảo tâm muốn tặng cho ông học bổng 1000 mỹ kim một năm để theo học y khoa tại viện đại học Havard. Ông đã từ chối học bổng hậu hĩ này, thứ nhất là điều kiện sức khỏe không cho phép theo học ngành này, thứ đến vì người anh còn phải theo học ở Ohio, nên ông còn phải ở lại đó để giúp đỡ anh.
Đại học tiểu bang Ohio chấp nhận cấp cho ông một học bổng để tiếp tục học chương trình Cao học. Ngoài ra, hàng năm ông còn nhận được 300 mỹ kim để tiêu pha.
Có người biết mục đích của Tống Thượng Tiết là sau khi đã học hành xong tại Mỹ sẽ trở về Trung Quốc để truyền bá Phúc âm, nên đề nghị cấp học bổng cho ông vào học ở Chủng Viện Thần Học.
Trước 4 con đường tươi sáng đó, ông đã chọn con đường thứ 3 là vào viện Đại học tiểu bang Ohio, thuộc thành phố Columbus. Tương lai thật huy hoàng, sáng lạng, đường danh vọng trước mặt như gấm trải, hoa thêu nhưng ông vẫn luôn băn khoăn, bồi hồi. Lòng dạ luôn bất an và như hối tiếc một điều gì vừa đánh mất! Chính ông cũng không tìm thấy được nguyên nhân thầm kín của nỗi lòng băn khoăn ấy. Để tự trấn an, ông rủ một người bạn trong đoàn truyền giảng Phúc âm đi dự trại hè sinh viên miền Tây Hoa Kỳ tổ chức tại Le Geneva, tiểu bang Wisconsin. Từ Colombus đến Le Geneva phải mấy ngàn dặm đường bộ, tổn phí di chuyển cũng phải trên 50 mỹ kim một người. Đến giờ lên đường, ông chỉ còn ít đồng dính túi, nhưng ông vẫn quyết định ra đi trong đức tin bằng cách quá giang xe.
Hôm ấy trời nóng bức, Tống Thượng Tiết cùng người bạn ra xa lộ đón xe xin đi nhờ. Cũng có một đôi chiếc cho đi nhờ vài chặng đường. Họ cứ làm như vậy đề thâu ngắn cuộc hành trình. Nhưng trong một đêm nóng bức nọ, người cho quá giang đã bỏ họ xuống ở một khoảng đường vắng vẻ, không quán trọ, không nhà cửa để xin tá túc qua đêm. Vừa đói lại vừa khát, nhưng ông cùng người bạn đồng hành quyết định cứ tiếp tục cuộc hành trình. Họ cắm cúi cùng nhau đi bộ suốt một đêm trường. Sáng hôm sau, chân thì mỏi nhừ, bụng đói, miệng khát, thân thể mệt nhoài… Hai người không còn cất bước được nữa. Ông đề nghị với bạn: “Thôi cứ đứng đây chờ sự trợ giúp của Chúa”. Vừa dứt lời thì có chiếc xe từ xa tiến lại. Ông vừa thầm nguyện vừa đưa khăn tay vẫy, tỏ ý xin đi nhờ. Chiếc xe từ từ dừng lại, chủ nhân vui vẻ mời hai chàng lên xe và hứa sẽ đưa họ đến tận Chicago. Từ đáy lòng, ông dâng lên những lời chân thành cảm tạ và ngợi khen Chúa để bày tỏ nỗi vui thỏa của mình.
Xe lăn bánh được một đoạn đường, ông lấy ra một quyển sổ và xin chữ ký đôi vợ chồng trẻ tốt bụng để lưu niệm. Lúc ấy mới hay họ cũng là bạn đồng trường với ông ở đại học Wesleyan.. Đôi vợ chồng trẻ này vừa cưới nhau và họ lên Chicago để hưởng tuần trăng mật. Họ cũng đã biết nhiều về thành tích vẻ vang của ông qua báo chí, nay vì tình cờ mà được gặp gỡ tận mặt, họ thật vui mừng và biểu lộ nhiệt tình cảm mến ông. Đến Chicago thì trời đã tối, nên đôi vợ chồng trẻ mời hai chàng vào khách sạn nghỉ ngơi và thết đãi một bữa cơm chiều thật thịnh soạn. Cơm tối xong họ ưu ái bắt tay nhau từ giã.
Từ thành phố Chicago đến hồ Geneva, địa điểm trại không xa lắm, đi xe bus chỉ tốn vài đồng. Ông đã không quản ngại ngàn dặm xa xôi để đến tham dự trại, nhưng những vấn đề mang ra thảo luận trong kỳ trại này không đáp ứng những khát khao tâm linh của ông. Ông thất vọng, lòng lại tràn đầy bất an. Ông rời trại, tìm đến một ngọn đồi vắng đề đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Câu chuyện Chúa Giê-su dùng năm cái bánh và hai con cá đãi cho năm ngàn người ăn tối diễn ra thật sinh động trước mắt. Ông vô cùng sung sướng, và để diễn tả nỗi lòng tràn ngập hân hoan, ông đã một mình nhảy nhót múa tay, khoe chân trên đồi vắng.
Tống Thượng Tiết nhận được bài học qua suy tưởng và những hình ảnh hiện ra trong đầu óc chàng thật rõ ràng: có những vật thật nhỏ mọn tầm thường, không đáng gì dưới con mắt loài người, nhưng khi ở trong tay Thượng Đế Toàn Năng thì trở thành giá trị lớn lao vô cùng. Ngài đã làm thành vật thể từ cõi hư vô. Vì vậy hành động dâng hiến cho Chúa là hành động bắt nguồn từ đáy sâu của lòng chân thành, hy sinh. Năm cái bánh và hai con cá biểu tượng một cách toàn diện thân thể chúng ta: Con người có ngũ quan, ngũ tạng, năm ngón tay, năm ngón chân, hai tay, hai chân, hai mắt, hai tai… Sinh tế đẹp lòng Chúa hơn hết là khi chúng ta tận hiến thân thể, cuộc đời mình cho Ngài. Chắc chắn Ngài sẽ không khinh rẻ mà còn dùng năng quyền tuyệt đối của Ngài để biến đổi chúng ta, khiến chúng ta trở thành hữu ích cho vô số người đang đói khát trông chờ. Do đó chúng ta không thể và không có phép dùng thân thể đã được chuộc bằng một giá rất cao là chính huyết của Chúa Cứu Thế Giê-su để tham dự vào những hành vi bẩn thỉu, xấu xa. Chúng ta phải dâng chính thân mình làm của lễ sống và thánh cho Chứa. Thân thể chúng ta thuộc về Chúa. Nếu chúng ta còn tìm cách để người khác vui lòng về mình, hoặc tìm những tư lợi, thỏa mãn riêng tư thì chúng ta không còn là tôi tớ của Chúa Cứu Thế nữa (Gal 1:10)
II. PHÉP LẠ CHỮA BỆNH KỲ DIỆU CỦA THƯỢNG ĐẾ
Từ trại hè Geneva về lại tiểu bang Ohio, Tống Thượng Tiết nhờ người tìm việc làm cho mùa hè. Lúc bấy giờ xin việc làm không phải là chuyện dễ. Cuối cùng ông cũng được nhận vào làm ở một nhà máy. Mới làm được 1 tiếng đồng hồ thì ông cảm thấy choáng váng và người lên cơn sốt. Biết không thể nào tiếp tục công việc được nữa, ông đành phải rời nhà máy để vào bệnh viện khám sức khỏe. Kết quả khám nghiệm là ông bị lao phổi. Muốn điều trị bệnh lao phổi thì phải được ở một nơi có không khí trong lành. Vị Mục sư sở tại đã giới thiệu cho ông một nông trại để làm việc canh tác. Tánh tình và sở thích của Tiết không thích hợp với việc đồng áng. Dù đã cố gắng hết sức, nhưng chỉ làm việc được 3 tuần là ông phải tự ý rời khỏi nông trại. Công việc đồng áng trong 3 tuần lễ ấy đối với ông thật là nặng nhọc, vất vả và bực mình. Đã vậy ông chẳng được trả một đồng thù lao nào mà còn lại bị trách mắng đủ lời!
Tống Thượng Tiết trở lại trường học với tinh thần và thể chất bạc nhược. Tất cả những ý chí, ước vọng về tương lai to lớn của những ngày mới tốt nghiệp đại học như tan biến theo mây khói. Dù con đường lợi danh vẫn còn rộng mở và quyến rũ, nhưng với ông, bây giờ chúng chỉ là những cạm bẫy hư vinh! Ông nhận thức được ý nghĩa đời người thật hư ảo nếu chỉ chạy theo những danh lợi, hư vinh. Tất cả đều hão huyền như những bong bóng nước của cơn mưa giông chiều. Không một con đường danh vọng gấm hoa nào còn có thề quyến rũ được ông. Chỉ những giờ phút cầu nguyện tương giao với Chúa là có ý nghĩa đích thực. Đó cũng là con đường duy nhất mà ông có thể bước đi nhẹ nhàng không vướng bận.
Lại rơi vào hoàn cảnh: “Tay không làm thì hàm không nhai”, ông phải xin một chân rửa chén
dĩa cho một nhà hàng. Mỗi ngày phải rửa hơn một ngàn chén dĩa, nên tay của ông bị sưng lên đau đớn. Đã thế, chủ nhà hàng lại đối xử tệ vói ông như với những kẻ làm thuê vô học khác, chỉ cho ăn những thức ăn khách ăn dư thừa. Ông thà nhịn đói chứ không chịu sỉ nhục ăn cơm canh thừa. Nhẫn nhục rửa chén dĩa trong 2 tuần cũng chẳng được một đồng thù lao nào, chàng lại phải bỏ việc ra đi…
Chỉ một thời gian ngắn sau, ông lại tìm được một việc khá đặc biệt: Làm phu cắt cỏ hai bên vệ đường. Dưới ánh mặt trời gay gắt, mỗi ngày phải làm 8 giờ, mỗi giờ được 4 hào rưỡi. Công việc thật là nặng nhọc vất vả, nhưng ông lại thấy thích thú, vì được làm việc dưới ánh nắng mặt trời và được hít thở không khí trong lành. Càng làm việc sức lực càng gia tăng. Sau 3 tuần lễ cắt cỏ bên vệ đường bệnh phổi của ông không cần thuốc thang mà tự nhiên lành hẳn. Thật là một phép lạ diệu kỳ của Thượng Đế!
CHƯƠNG 16
BẮT ĐẦU MỘT THỜI KỲ
HOẠT ĐỘNG MẠNH (1924)
Mùa hạ đã trôi qua, sức khỏe của Tống Thượng Tiết hoàn toàn hồi phục. Tinh thần phấn chấn, ông bắt đầu hoạt động hăng say tại đại học Ohio. Thời gian đó là một trang sử vàng son trong cuộc đời ông.
Đại học Ohio qui tụ trên 1000 sinh viên đến từ 13 quốc gia khác nhau trên thế giới. Trước đây có một văn phòng của cơ quan sinh viên quốc tế đặt tại trường nhưng vì không có người điều hành nên mọi hoạt động của cơ quan đều bị ngưng đọng và lụi tàn dần.
Tựu trường được một thời gian, Tống Thượng Tiết được đề cử làm hội trưởng cơ quan sinh viên quốc tế đó. Theo nhận xét của ông thì những hội viên của cơ quan này chỉ là những người làm cho có, không ai có tinh thần trách nhiệm. Muốn cơ quan hoạt động mạnh mẽ trở lại không là một chuyện một sớm một chiều. Ông quyết định dùng biện pháp phân công, giao việc, hợp tác lại tất cả mọi hội viên. Tạo lại không khí hứng khởi, vui tươi thích thú cho họ. Mỗi hội viên đều có cơ hội đóng góp tài sức mình để xây dựng hội.
Trước hết, ông triệu tập hết tất cả những hội viên có khả năng âm nhạc, thành lập một ban nhạc và dùng những nhạc khí đặc thù của quốc gia mình để trình diễn. Sau một thời gian tập dợt, hội quyết định tổ chức những đêm hòa nhạc, gây quỹ cho hội. Vé vào cửa thật rẻ. Người Mỹ vốn ưa thích nghe trình diễn nhạc, nên chẳng mấy chốc vé hạng $1 đến $5 đều bán sạch. Tổng kết những đêm ca nhạc tiền thâu vào lên đến một ngàn mỹ kim. Trừ chi phí, số tiền lời sung vào quỹ cho sinh viên quốc tế vay không lấy lãi. Những đêm hòa nhạc của Hội Sinh Viên Quốc Tế thành công mỹ mãn, nên báo chí đua nhau đăng tin, gây ảnh hưởng thật tốt cho Hội.
Tiếp đến, Tống Thượng Tiết mời các nữ sinh viên trổ tài nấu nướng. Các nàng nấu đủ các món quốc hồn quốc túy của quốc gia mình. Thực khách có thể chọn các món mình ưa thích. Qua dịp này nhiều người thuộc những quốc gia khác nhau có thể quen biết, trao đổi kiến thức cũng như phong tục tập quán của nhau. Những sinh hoạt này đáp ứng được nhu cầu tinh thần và tâm lý của giới trẻ, nên Hội Sinh Viên Quốc Tế có đà phát triển mạnh. Ngân quỹ của Hội càng ngày càng dồi dào.
Mặc dù công việc của Hội thật bề bộn, nhưng không vì thế mà ông lơ là việc học hành. Sau 9 tháng sách đèn, và qua một kỳ thi cam go, tháng 6 năm 1924, Tống Thượng Tiết tốt nghiệp Cao học với hạng tối ưu. Hội khoa học tặng cho chàng một chìa khóa vàng, đó là một vinh dự lớn, chỉ dành cho những sinh viên ưu tú, lại sinh hoạt chăm chỉ chịu khó.
Ông cũng tự học thêm về vật lý, nhưng chuyên ngành là hóa học và cũng đã nghiên cứu và bào chế một loại nước hoa, nên được Hiệp Hội Khoa Học tặng một huy chương tưởng lục và nhà trường thưởng một số hiện kim là 300 mỹ kim. Chính phủ Trung Hoa nghe tin cũng tặng cho Tống Thượng Tiết 480 mỹ kim.
Tất cả sinh viên đều nhìn ông với đôi mắt thán phục, họ thấy ông như đạt được tất cả những danh vọng, những ước mơ của sinh viên. Nhưng riêng ông, vẫn thấy như thiếu vắng một điều gì. Những buổi sáng tinh sương, thức dậy nghiên cứu những chất độc hóa học cùng những chất độc để sản xuất lựu đạn cay. Ông thường phát biểu: “Khi những huyết quản trong cơ thể tôi chưa ngừng lại, thì lòng tôi vẫn không ngớt nuôi tham vọng học hỏi, tìm tòi để hiểu biết thêm”.
Vừa xong cử nhân thì chương trình cao học mời gọi. Đạt được cấp bằng cao học với hạng tối ưu thì mảnh bằng tiến sĩ lại gọi mời. Muốn tiếp tục chương trình tiến sĩ thì phải thông thạo và qua một kỳ thi sinh ngữ thứ nhì. Các chương trình tiến sĩ khác ngoài khoa học thì có thể chọn Pháp ngữ hay Đức ngữ, nhưng riêng ngành khoa học thì bắt buộc phải chọn Đức ngữ. Ông đã từng bỏ nhiều thì giờ học Pháp văn, nhưng Đức văn thì chưa bao giờ học, nên nay phải tự học.
Sau chỉ hai tháng chăm chỉ, vốn liếng Đức ngữ của ông đã có thể nghiên cứu được những tài liệu khoa học. Khi ghi danh dự thi, vị giáo sư không có thì giờ trắc nghiệm trình độ Đức ngữ của ông nên đưa cho một quyển sách khoa học bằng Đức ngữ, bảo dịch sang Anh ngữ. Hoàn tất việc dịch, ông nộp cho giáo sư của mình. Đọc xong giáo sư rất hài lòng về trình độ Đức ngữ của ông và không tiếc lời khen ngợi về lối dịch rất chính xác. Giáo sư tưởng ông ít nhất cũng đã phải mất 3 năm để trau dồi Đức ngữ như những sinh viên khác mới có thể đạt được trình độ này. Ông cũng tự thấy thỏa lòng, có cảm nghĩ mình như một người ăn mần thắn, chỉ riêng mình mới biết mình đã ăn bao nhiêu viên.
Khi đã hội đủ điều kiện rồi, ông bắt đầu chăm chú nghiên cứu chương trình tiến sĩ. Suốt ngày ông bận bịu với sách vở và phòng thí nghiệm, nhưng cũng cố gắng dành thì giờ để điều hành Hội Sinh Viên Quốc Tế.
Lúc bấy giờ tại Mỹ, phong trào kỳ thị chủng tộc đang lên cao. Sinh viên da trắng không bao giờ bắt tay sinh viên đen chứ đừng nói đến chuyện cùng nhau thảo luận trò chuyện. Ông rất bất bình với tinh thần hủ bại này, ông muốn làm một cái gì để phá vỡ bức tường ngăn cách chủng tộc ô nhục này. Ông nghĩ ra một kế hoạch để thực hiện ý định mình.
Ông mời tất cả các nữ sinh (của hơn 13 quốc gia đang theo học đai học Ohio) nấu những món ăn quốc hồn quốc túy của họ, rồi mời tất cả sinh viên trong trường đến dự. Mỗi khẩu phần chỉ tốn 50 xu. Riêng sinh viên da đen thì được miễn phí, vì hoàn cảnh của họ chật vật hơn những sinh viên khác.
Trong phòng ăn, những bàn được sắp xếp theo hình chữ LOVE. Các nữ sinh viên trong Hội Quốc Tế Sinh Viên làm “hầu bàn”. Khi vào tiệc, các sinh viên da đen được sắp xếp ngồi xen kẽ với các sinh viên da trắng. Sau bữa ăn là phần diễn thuyết. Tống Thượng Tiết thường trình bày về tình yêu của Chúa Cứu Thế và tinh thần tương thân tương ái rút ra từ Phúc âm. Những bài thuyết giảng của ông lúc nào cũng thấm nhuần tinh thần học mới. Sau này, hồi tưởng lại, ông thường tâm sự, ông đã đi vào “ một con đường dường như chính đáng” nhưng sai lạc. Chính ông đã bị mũi tên “thần học xã hội” bắn trúng và nhiễm độc lúc nào không hay biết. Tuy nhiên, những bữa ăn như vậy được kể là thành công vì có ảnh hưởng rất lớn. Sau đó ông kêu gọi thành lập một hội Gia Hữu Chủng Tộc. Hàng tháng tổ chức những bữa cơm tập thể, những món ăn cũng được của các nữ sinh của các quốc gia khác nhau cung cấp, nấu nướng. Mục đích của các bữa ăn này là tìm cách xóa tan sự ngăn cách màu da chủng tộc. Ngoài ra Hội cũng mời những giáo sư nổi tiếng như tiến sĩ Stanley Jones đến thuyết giảng và tham dự những bữa ăn “quốc tế” này.
Trong khi dùng bữa, họ bàn với nhau những phương cách cải thiện và đãi ngộ đời sống dân da đen. Báo chí các trường đại học Mỹ đã viết nhiều bài tường thuật và phân tích những buổi thuyết giảng này. Sau đó các buổi sinh hoạt tương tự được tổ chức cùng khắp các đại học ở Mỹ. Ai cũng thấy rõ, Tống Thượng Tiết là cha đẻ của phong trào bài trừ nạn kỳ thị chủng tộc trong các đại học. Trường đại học Ohio nổi tiếng cũng là do phong trào của ông. Báo chí trong nước tiếp tục đăng tải những bài viết về phong trào “xóa bỏ kỳ thị” và ca ngợi Tống Thượng Tiết, khiến ông rất hãnh diện và vui mừng thấy Hội Sinh Viên Quốc Tế ngày càng lớn mạnh. Ông cũng mời những sinh viên Do Thái tham gia vào Hội.
Hội viên của Hội đều ủng hộ và mời Tống Thượng Tiết tiếp tục giữ chức chủ tịch trong nhiều khóa sau đó. Khi tiến sĩ Stanley Jones nhận lời mời, đến thuyết giảng trong những bữa ăn “quốc tế” nói trên cũng đã hết lời ca ngợi Tống Thượng Tiết, khiến cho ông nở hoa. Trong một lần đại hội, ông được bầu làm chủ tịch của Hội Hòa Bình sinh viên 13 quốc gia. Không những sinh viên mà quần chúng cũng hoan hô nhiệt liệt với những bài ca ngợi đăng trên báo chí. Lòng Tống Thượng Tiết lâng bâng bay bổng, tưởng như mình là một chính khách lỗi lạc nào đó. Sau này khi nhắc đến câu chuyện xưa ấy, vị “lãnh tụ phong trào Hòa Bình” tâm sự rằng: “Bây giờ ôn lại quá khứ, những việc ấy giống như phù vân, sớm tan biến vào hư không. Thật xấu hổ khi ở ngoài với xã hội tôi tổ chức những đại hội này, kêu gọi phong trào nọ, nhưng vừa về đến nhà là cãi cọ, và ẩu đả với chính anh ruột mình. Ôi! Tất cả chỉ là việc làm của một xác chết, xác chết thì có giá trị gì đáng nói!!”
CHƯƠNG 17
VỪA GIAO TẾ VỪA NGHIÊN CỨU
(1923-1926)
Ngoài công việc của Hội Sinh Viên Quốc Tế, Tống Thượng Tiết còn tham dự những sinh hoạt trong Giáo Hội. Mỗi tuần, ông đều được mời đi giảng cho thiếu niên, hay đến chia sẻ, khích lệ cho các Hội Thánh, ít nhất 1 hay 2 lần. Xe đến đưa đón thường xuyên thật là bận rộn. Trong thời gian 3 năm học ở Ohio. Ông đã đến các Hội Thánh giảng dạy, chia sẻ hơn 100 lần. Vào các dịp lễ như Giáng Sinh thì ông lại càng bận rộn hơn nữa. Ông đã mở các cuộc lạc quyên trong trường, lấy tiền mua quà cho các em thiếu nhi sống trong cô nhi viện. Hàng năm có đến hai hay ba trăm em đã được nhận quà từ “Ông già Nô-en Tống Thượng Tiết”. Ngoài ra, mỗi năm ông còn quyên góp hàng trăm Mỹ kim giúp cho quỹ tiết kiệm của các Hội Thánh.
Một trong những nơi ông thường đến giảng dạy là một Hội Thánh Giám lý. Họ có ý định mời ông làm Mục sư quản nhiệm. Ông thấy đây là một vinh dự lớn, nên đã vui vẻ nhận lời mời. Nhìn lại quá khứ, Tống Thượng Tiết thú nhận rằng trong những thời điểm đó, mình là một Cơ-đốc nhân không có sức sống, nhưng lại ham thích làm những công việc thuộc linh. Ông thấy lòng không một chút bình an mỗi khi đi giảng dạy Lời Chúa. Những bài giảng của ông lúc đó hoàn toàn do tài hùng biện và những vốn liếng trí thức thâu thập được trong học đường. Lắm khi, lý do đi giảng dạy cũng thôi thúc từ cõi lòng muốn khoe khang vốn liếng tri thức của mình, muốn cho mọi người biết đến danh tiếng của mình.
Ngoài những hoạt động về mặt tôn giáo và xã hội, ông còn có những hoạt động trong lãnh vực giao tế. Là một thanh niên nổi tiếng như vậy, nên ông có rất nhiều bè bạn. Những sinh viên nam nữ lúc bấy giờ cho việc kết thân với Tống Thượng Tiết là một đại vinh dự. Ông được rất nhiều người mời mọc về nhà thiết đãi như một thượng khách, được mời đi xem phim hay tham dự những cuộc vui khác. Ông đã nếm trải tất cả những thú vui và hưởng thụ tất cả những lạc thú mà một thanh niên của thời đại ưa thích… Nhưng tạ ơn Thượng Đế, ông đã không bị chìm ngập và lôi cuốn vào cuộc sống đầy trụy lạc đầy thú vui thụ hưởng của xã hội Mỹ thời bấy giờ.
Một thanh niên nhiều bè bạn như vậy, ông tất phải cần nhiều tiền để chi tiêu. Nhưng tiền bạc đối với ông lúc này không còn là vấn đề khó khăn nữa, mức thu nhập nay đã rất phong phú. Ông được mời giữ chức phụ tá giáo sư đại học. Hơn nữa, thành tích học vấn ưu hạng đã khiến chính phủ Trung Hoa chú ý và đã xuất công quỹ cấp cho Tống Thượng Tiết một khoản trợ cấp khá cao để chàng tiếp tục theo đuổi việc học hỏi và nghiên cứu. Thời gian này có một cuộc sống vật chất thật đầy đủ, tưng bừng với những cuộc vui triền miên, chiếm nhiều thì giờ… Ông không còn đủ thì giờ cho việc nghiên cứu học hỏi nữa. Dầu vậy ông cũng tìm đủ mọi cách để bù vào những thì giờ đã lãng mất., bằng cách thức dậy thật sớm để vào phòng thí nghiệm nghiên cứu. Thường thì ông làm việc rất khuya, cũng có những khi phải thức thâu đêm, suốt sáng. Ông bị cuốn hút trong cuộc sống bận rộn giao tế bạn bè, đồng thời cũng bị bài vở thôi thúc, không cách nào rút chân ra khỏi cái chiến trường giằng co ấy…
CHƯƠNG 18
ĐẬU TIẾN SĨ (1926)
Lấy xong bằng Cao học, Tống Thượng Tiết tiếp tục nghiên cứu để thi Tiến sĩ. Một năm 9 tháng dùi mài kinh sử và cắm cúi trong phòng thí nghiệm, ông hoàn tất chương trình Tiến sĩ với luận án “The Constitution of organic magnesium compounds and the magnesium of creamer reaction”. Lễ nhận văn bằng Tiến sĩ của Tống Thượng Tiết dược cử hành vào ngày 3, tháng 3, năm 1926. Nơi cử hành lễ trang hoàng thật vui mắt. Những giỏ hoa tặng cho sinh viên tốt nghiệp chất cao như núi. Xe cộ đậu kín sân trường. Khách tham dự chen chân không lọt. Người người đều khen tặng Tống Thượng Tiết là một nhà bác học tuổi trẻ, tài cao.
Trong khung cảnh rộn ràng náo nhiệt, mừng mừng, vui vui với những lời khen ngợi chúc tụng, ông cảm thấy một nỗi buồn khó tả xâm chiếm tâm hồn. Nỗi ư phiền trĩu nặng, choáng ngợp khiến chàng ứ nghẹn đến khó thở. Với dòng thác bạn bè kéo đến chúc mừng, chàng chỉ miễn cưỡng bắt tay đáp lễ.
Tốt nghiệp tiến sĩ, ông tiếp tục ở lại trường giữ chức vụ phụ tá giáo sư. Trước mặt Tiến sĩ Tống, tương lai rộng mở chờ đón. Con người đầy nhiệt huyết, lại bị tham vọng thôi thúc, ông muốn vươn cao hơn nữa. Tống Thượng Tiết như muốn ôm trọn học vấn, túi khôn của loài người về cho mình. Thế nên, ngoài lãnh vực chuyên khoa là hóa học, chàng còn tiến sâu vào những lãnh vực mà trước đây ông chưa hề để tâm đến như triết học, sử học, địa lý, xã hội học, kinh tế học, sinh vật học… Bạn bè thường trêu chọc là “ông tiến sĩ đa khoa”. Cái gì cũng tham lam muốn biết! Ông như mặc nhiên chấp nhận, vì trong thâm tâm, chàng muốn trở nên một tiến sĩ “toàn tri”!
Trong lúc đó, vì giáo sư về kỹ nghệ hóa học của Đại học Ohio muốn sưu tập những bài viết, nhũng tài liệu nghiên cứu có liên quan đến kỹ nghệ hóa học nên nhờ Tống Thượng Tiết tiếp tay, giúp đỡ. Ông nắm ngay lấy cơ hội và xem đây như một dịp may hiếm có. Vừa được thù lao cao, lại được học hỏi, nghiên cứu thêm miễn phí. Sau một thời gian làm việc, vị giáo sư này giới thiệu Tống Thượng Tiết với cơ quan Lập Pháp tiểu bang Ohio, nhờ sưu tầm, nghiên cứu những luật pháp tương quan đến các nhà máy hóa học thuộc tiểu bang. Qua công việc này, ông sinh hiểu biết thêm về luật pháp đồng thời kiến thức được nới rộng và kinh nghiệm cũng thêm nhiều.
Dày dạn kinh nghiệm và kiến thức sâu rộng, khí thế tinh thần của Tống Thượng Tiết lại càng được nâng cao, càng nhìn đời với đôi mắt khinh mạn. Vũ trụ như quá bé nhỏ cho ông tìm hiểu, chẳng còn gì để khám phá!
Sau nửa năm cùng nghiên cứu sưu tầm, vị giáo sư nhận thấy người phụ tá của mình quả là một nhà bác học tài năng lỗi lạc, xứng đáng được đề cử đi nghiên cứu học hỏi thêm ở nước ngoài. Ông liền vận động tài chánh và phương tiện để đưa Tống Thượng Tiết sang Đức nghiên cứu thêm về hóa học. Đang khi chuẩn bị lên đường thì ông nhận được thư của quê nhà, từ một đại học y khoa nổi tiếng ở Trung Hoa, mời ông về giữ chức giáo sư khoa hóa học hữu cơ. Nhận được thư mời ông cảm thấy thật vinh dự nhưng đồng thời cũng lưỡng lự bàng hoàng, tấn thoái lưỡng nan: Sang Đức du học là một cơ hội để học biết thêm, thỏa mãn được tham vọng và nhu cầu cần khám phá tìm tòi, và rất có thể còn lấy thêm được vài ba danh hiệu Tiến sĩ. Lúc ấy trở về Trung Hoa mới thật là đạt đến đỉnh cao danh vọng. Nhưng trong ông lại cũng có lòng yêu nước thôi thúc, quốc gia đang cần nhân tài để phục vụ Tổ Quốc lẽ nào lại lần lựa hẹn hò?
Nội tâm Tống Thượng Tiết trải qua một cơn tranh chiến mãnh liệt, dằng co giữa đôi đường mời gọi. Để trấn áp lương tâm, ông nghĩ ra một phương cách “nhất cử lưỡng tiện”: Vì lòng yêu quê hương, tổ quốc mà qua Đức quốc để trau dồi thêm kiến thức chuyên môn, vài ba năm sau sẽ trở về để phục vụ đất nước, hợp lý hợp tình làm sao! Tuy nhiên giải pháp này cũng chỉ là một phương cách để trấn áp lương tâm mà thôi.
Một đêm đi thẩn thơ, suy tưởng dưới ánh trăng vằng vặc, ông chợt nhớ về 2 câu thơ của thi hào Lý Bạch:
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
(Tạm dịch: Ngước mắt ngắm trăng thanh
Đầu cúi nhớ quê nhà).
Lời thơ như lung linh; hình ảnh non sông gấm vóc tuyệt vời của Trung Quốc như hiện về trong trí nhớ Tống Thượng Tiết. Nhưng khi quay gót vào phòng thì hình ảnh những nhà bác học treo trên tường lại thôi thúc lòng ông nhất quyết hướng về Bá-linh để thỏa mộng sách đèn.
Trong khi lòng đang có cuộc tranh chiến giữa danh lợi, lợi danh, bỗng thoảng bên tai một giọng nói dịu dàng nhưng đâm thẳng vào lòng Tống Thượng Tiết: “Nếu ngươi được cả thiên hạ mà mất linh hồn thì có ích gì?”. Nghe tiếng nói rõ ràng bên tai, ông đưa mắt nhìn quanh, căn phòng vẫn tĩnh mịch không một bóng người. Ông nhận biết đó là tiếng kêu gọi thiết tha của Chúa trên trời.
CHƯƠNG 19
VÀO CHỦNG VIỆN NỮU ƯỚC
I. TIẾN SĨ KHOA HỌC THEO HỌC THẦN ĐẠO
Sáng hôm sau, một người đàn ông đạo mạo đến thăm Tống Thượng Tiết. Câu đầu tiên ông ta nói liền: “Ông không có phong thái của một nhà bác học, nhưng lại có cung cách của một Mục sư”. Người đàn ông đạo mạo ấy chính là Mục sư Wilker Fowler một người khách không mời mà đến thăm. Câu nói khơi mào câu chuyện có vẻ đường đột ấy khiến Tống Thượng Tiết cảm thấy một điều gì rất quan trọng cho đời mình. Câu nói như vô tình nhưng đã khơi lại bao hình ảnh như xa xôi như gần gũi trong trí nhớ ông. Gần gũi vì mới đêm qua đây, ông vừa nghe được lời cảnh tỉnh của Cha trên trời; xa xôi vì cách đây đến 5 năm, khi rời quê hương, bước chân lên con tàu đi du học. Phải chăng trong tâm niệm ông là khi học hành xong sẽ trở về quê hương làm người rao giảng Phúc âm?
Tống Thượng Tiết kể lại những ý tưởng, những dao động ấy cho vị Mục sư nghe. Nghe xong, vị Mục sư đạo mạo không mời mà đến ấy liền mời ông đến Nữu Ước để học Thần đạo. Ông ta đưa một ngón cái lên trời, tỏ ý muốn nói trường Thần đạo đó là một trường rất nổi tiếng trên thế giới – Chủng viện Union Theological Seminary. Mục sư Wilker Fowler muốn ông trả lời ngay lời đề nghị của mình. Chỉ cần vài phút suy nghĩ, Tống Thượng Tiết ha hả cười nhận lời không do dự. Tất cả những kế hoạch, chương trình sang Đức du học, rồi về nước làm giáo sư, ông tức thì dứt khoát quẩng lại phía sau và loại ra khỏi đầu óc của mình.
Sở dĩ Tống Thượng Tiết chấp nhận lời đề nghị của Mục sư W. Fowler quá nhanh như vậy vì trong trí bật ra những ý nghĩ, những toan tính… Thứ nhất, Nữu Ước là một thành phố lớn nhất Mỹ quốc, nơi đó có rất nhiều bảo tàng viện đồ sộ và giá trị văn học cao. Ông muốn đến đó để lấp cái hố tri thức vốn không thể lấp đầy của mình! Hơn nữa tại Nữu Ước lại có một trường nổi tiếng thế giới là đại học Columbia. Đó là nơi mà lòng ngưỡng mộ của Tống Thượng Tiết hướng về. Ông hy vọng đến tại Union Theological Semitary sẽ học được nhiều môn thần học cần thiết, đồng thời cũng có thể nghiên cứu thêm những nền học thuật khác. Thứ đến, chủng viện hứa cấp học bổng rất hậu. Ngoài việc ăn học miễn phí, mỗi năm còn được trợ cấp thêm 500 Mỹ kim. Tại sao không nắm ngay lấy cơ hội hiếm có này?
Tháng 9 năm 1926, Tống Thượng Tiết rời Ohio, để đến Nữu Ước. Sau khi nhập chủng viện, ông mới biết phải cần 3 năm mới hoàn tất chương trình. Muốn rút ngắn lại thời gian học, ông gặp ban giám đốc, xin được học tất cả những môn quan trọng trong vòng 1 năm. Lời đề nghị được ban giám đốc nhà trường chấp thuận. Thế là ông bắt tay vào việc. Như vậy ông phải học nhiều hơn những sinh viên khác cùng trường mỗi tuần 7, 8 giờ.
Những người quen biết, nghe tin Tống Thượng Tiết vào chủng viện, đều lấy làm ngạc nhiên. Mọi người như cùng một ý nghĩ và tự hỏi: “Tại sao một con người với bằng tiến sĩ khoa học tối ưu, lại còn vào chủng viện nghiên cứu thần học đề làm gì?”. Thắc mắc này đến từ những tín hữu bình thường thì ông cũng không lấy làm lạ, nhưng nó lại phát ra từ miệng những sinh viên thần học, khiến ông thật vô cùng thất vọng. Vì ông quan niệm rằng, đã là sinh viên thần học phải có đời sống thuộc linh cao, đã tận hiến cuộc đời và không màng gì đến những gì của thế tục. Chẳng bao lâu sau, ông tìm ra nguyên nhàn và ông thấy tận tường mặt trái của chủng viện. Ông tuyên bố: “Tôi đã mù quáng khi đến chủng viện này, thần học chỉ là chiêu bài của trường này, ngoài ra không có một sinh khí thuộc linh nào tại đây”. Tống Thượng Tiết nhận thức được rằng, nơi này có thể giúp ông phát triển kiến thức, nhưng phần tâm linh không thể nào tăng trưởng. Sức sống thuộc linh không thể tìm thấy nơi chủng viện này. Nhận định này của ông không một ác ý , hay cố tình công kích, ông chỉ phát biểu một sự thật: Union Theological Seminary là một chủng viện thuộc Tân phái!
Tuy vậy trong chủng viện cũng có một số sinh viên giữ được lòng tin kính thuần chính. Họ thường họp nhau cầu nguyện tại nhà ông bà Giáo sư Tiến sĩ C.D.Damin. Tống Thượng Tiết liền gia nhập nhóm cầu nguyện này. Ông bà Tiến sĩ Damin vốn là giáo sĩ tại Hán Thành, Đại Hàn. Hiện về nước nghỉ hạn tại Nữu Ước, ông bà cũng là giáo sư thần học của một chủng viện thuộc giáo phái Giám lý tại Nữu Ước, họ thuộc những người theo truyền thống cũ. Vì đồng quan điểm, nên Tống Thượng Tiết đã trở nên gần gũi thân thiết với Tiến sĩ Damin trong chủng viện Union Theological Seminary.
Chủng viện thường mời diễn giả khắp nơi về thuyết giảng. Họ đón nhận mọi quan điểm thần học của các diễn giả. Sinh viên cũng như các giáo sư đều có thái độ với những diễn giả đó như những khán giả xem kịch, hay thì vỗ tay tán thưởng, nghe không vừa ý thì lắc đầu chê bai. Thật ra thì lúc bấy giờ ông cũng đã chịu ảnh hưởng trong hơn ba bốn năm của thần học Phúc âm Xã hội, nên cũng có thái độ giống như mọi người. Nếu không như vậy chắc ông cũng đã bị loại ra khỏi trường rồi. Điều đó sau dược xác nhận sau khi Tống Thượng Tiết thật sự được tái sanh. Sau khi ông được Chúa thăm viếng, ông đã nhắc lại phương pháp giải Kinh mà ông đã học được ở chủng viện Union Theological Seminary như sau: “Trước hết, họ dựa trên nền tảng triết học để giải thích Thánh Kinh, nếu triết học không giải thích được, họ quay sang chứng minh bằng khoa học, nếu khoa học không chứng minh nổi thì họ xem những chuyện trong Thánh Kinh chỉ là những chuyện ngụ ngôn có tính cách luân lý. Nền tảng triết học mà họ thích dùng như một phương tiện để giải thích Thánh Kinh là tâm lý học thực dụng. Nếu có những trường hợp vượt quá tầm luận lý của những phương pháp trên thì họ tuyên bố những phân đoạn Thánh Kinh đó không hợp lý, không đáng tin cậy. Hoặc họ bỏ qua những phần Thánh Kinh đó, chân lý Thánh Kinh đã bị họ bóp méo hay bỏ qua đi rất nhiều”.
Nhiều người lầm tưởng Tống Thượng Tiết đả kích Union Theological Seminary, nhưng ngược lại ông đã ủng hộ chủng viện ấy. Sự ủng hộ của ông không giống những người khác: Ông đã cầu nguyện nhiều để Chúa Thánh Linh của Đức Chúa Trời cải tổ Union Theological Seminary, cũng như vậy những trường thần học ở Trung Hoa có cùng quan điểm cũng như cho những chủng viện khác đang ở trong tình trạng thuộc linh bị phá sản. Tống Thượng Tiết rất quan tâm đến tình trạng thuộc linh của Hội Thánh và các chủng viện.
Sau này tại Bắc Kinh khi những tân tín hữu tiếp nhận Chúa và được tái sanh, ông thường giới thiệu họ đến sinh hoạt với Hội Thánh của Mục sư Vương Minh Đạo. Riêng những người muốn dâng mình hầu việc Chúa thì ông giới thiệu họ theo học trường thần đạo của Mục sư Dã Ngọc Minh.
II. ĐƯỢC MỘT CÔ GÁI BẮT PHỤC
Theo học được nửa năm tại Union Theological Seminary, Tống Thượng Tiết nhìn rõ được mặt trái của Chủng viện ông thấy chẳng có một ý nghĩa gì khi theo học Chủng viện này! Những gì ông học được với các giáo sư trong các lớp học không bằng một phần ông học hỏi được khi nghiên cứu riêng trong thư viện. Ông thầm nghĩ tại sao mình phải làm nô lệ cho học trình?
Muốn bù đắp lại khoảng trống vô nghĩa này, ông chôn mình trong thư viện, nghiên cứu thêm những học thuyết của nhiều tôn giáo khác. Đặc biệt ông rất chú trọng đến Phật giáo… Những tư tưởng cao siêu, những điều mới lạ, ông khám phá được trong khi nghiên cứu, ông đều ghi chép lại. Trong tình trạng biến thái của tâm hồn và tâm linh, Tống Thượng Tiết đã viết một số sách nghiên cứu. Công trình mà ông thấy đắc ý nhất là tác phẩm dịch từ nguyên tác quyển Đạo dức kinh. Chẳng những ông nghiên cứu về tư tưởng của các tôn giáo, ông cũng còn nghiên cứu về mặt hình thức tổ chức của những tôn giáo này nữa. Ông thường đi lại thăm viếng, đàm đạo với các giáo quyền của các tôn giáo trong thành phố Nữu Ước. Do sự nghiên cứu và tiếp xúc này, Tống Thượng Tiết đã đi đến kết luận: “Tất cả mọi tôn giáo đều là đại lộ dẫn đến La-mã!”.
Dầu kết luận như vậy nhưng trong lòng không bình an, ông thấy cuộc đời tất cả chỉ là ảo ảnh. Đời người cuối cùng là bị vây quanh với khổ đau trùng điệp. Mặc dầu cả thế giới đang công nhận khả năng tuyệt đối của khoa học, nhưng ông lại là người phủ nhận điều đó. Ông nói: “Tôi đã sống bao nhiêu năm trong lãnh vực khoa học, nhưng chưa bao giờ nhờ vào khoa học mà tâm hồn tôi thảnh thơi vui thỏa. Khoa học có khả năng cung ứng mọi vật chất cho sự hưởng thụ của con người, nhưng không thể làm giảm gánh nặng đau buồn trong tâm linh. Triết học, tâm lý học và tất cả những nền học thuật khác cũng chẳng thể nào làm cho con người được giải phóng khỏi xích xiềng của tội lỗi.”
Tình trạng tinh thần hoang mang, tâm linh rối bời. Tống ăn không hết bữa, ngủ không yên giấc. Thân thể mệt mỏi, tứ chi rã rời. Ông trở nên ít nói, trầm tư. Nét mặt như nhuốm một vẻ buồn u uẫn. Để tránh mọi ngộ nhận của những người chung quanh, ông ít khi ra khỏi phòng. Ông muốn sống trong tĩnh lặng để thiền, để niệm Phật, để tu thân và suy gẫm và thực nghiệm lối sống thanh tịnh, vô vị của Lão tử. Tống Thượng Tiết lúc đó như con người vô hồn, niềm tin dao động như con thuyền nhỏ, không người chèo lái, không địa bàn, mất phương hướng, trôi dạt giữa biển rộng mông mênh!
Một hôm có vài người bạn đến mời Tống Thượng Tiết đi dự một buổi thuyết giảng phấn hưng. Hầu hết hội chúng đều nghĩ rằng diễn giả phải là một giáo sư tiến sĩ nổi tiếng nào đó. Nhưng mọi người đều rất ngạc nhiên khi vị diễn giả xuất hiện, vì đó chỉ là một cô gái chưa quá tuổi vị thành niên. Cô gái trang phục toàn màu trắng: Áo trắng, váy trắng, giày trắng… Nếu cô xuất hiện ở Trung Hoa, người ta sẽ nghĩ là cô đang ở trong thời kì đại tang của cha mẹ. Cô chỉ mang theo mình 1 quyển Thánh Kinh bìa da mạ vàng, khoan thai mở ra đọc lớn tiếng, đọc xong cô mời hội chúng yên lặng. Trong cái tĩnh lặng đó Tống Thượng Tiết cúi đầu suy gẫm, và cảm thấy bầu không khí trong hội trường thật là thanh khiết nghiêm trang, khác hẳn những buổi sinh hoạt khác. Giây khắc sau, ông ngẩng đầu lên, một niềm vui thỏa trào dâng, ông đang sống những giây phút thiên đàng tại trần gian.
Tiếng nói của cô thật thanh thoát nhẹ nhàng. Phương pháp giả Kinh thật khúc chiết, chặt chẽ đã nêu rõ sự cứu rỗi trong Phúc âm của Chúa Cứu Thế Giê-su. Mỗi một lời nói của cô như khai mở những huyền nhiệm trong thiên quốc. Như một hồi chuông cứu độ ngân vang thanh thoát và đưa cao đạo Thập tự giá của Chúa Cứu Thế. Tống Thượng Tiết xúc động mạnh, hơi thở như ứ nghẹn, ông cảm thấy khao khát Lời Chúa “như con nai cái thèm khát khe nước” và đồng thời cũng như đang được thấm nhuần nước suối trong mát tại đó.
Hình ảnh những người vội vã chạy lên bục giảng ăn năn, xưng tội có ấn tượng sâu sắc và như in hằn vào tâm khảm của ông, không làm sao phai mờ trong ký ức được. Trong số những người tin nhận Chúa đó có cả những lãnh tụ trong xã hội, những viên chức cao cấp trong chính phủ, cũng có cả những Mục sư nổi tiếng của các giáo phái… Tất cả như đang chìm ngập trong niềm ăn năn sám hối và cũng như được nhận chìm trong ân sủng thiêng liêng. Hình ảnh ấy đã lay động tâm hồn Tống Thượng Tiết với một niềm cảm mến, thán phục cô gái diễn giả. Riêng các sinh viên của Union Theological thì ôm bụng cười kiêu ngạo.
Tống Thượng Tiết tham dự liên tục 5 buổi giảng phấn hưng đó. Những buổi sinh hoạt giảng dạy đó đầy dẫy quyền năng của Chúa Thánh Linh, lòng ông tràn ngập vui thỏa. Ông dõng dạc tuyên bố: “Tôi thấy cô gái này thật xứng đáng giữ chức vụ viện trưởng hay giáo sư tại các Chủng viện, và việc tốt nhất, tôi nghĩ, là ông viện trưởng của trường tôi đang theo học phải khiêm nhường, hạ mình đến theo học với cô này về Chân lý Phúc âm. Có như vậy mới đủ tư cách và xứng đáng làm viện trưởng. Nói một cách khác nếu không có tâm tình và ân tứ thuộc linh như cô gái diễn giả này, cho dù có đang là một vị viện trưởng đạo mạo nào thì cũng là hữu danh vô thực, giả dối và vô ích, chẳng khác chi một thư ký công nhật, đi làm để mưu sinh.”
Năm ngày giảng phấn hưng chấm dứt, dáng vẻ thanh khiết, trang nghiêm với sức sống tâm linh tràn đầy của cô gái đã khắc sâu và tâm khảm ông. Mãi đến năm 1933, khi viết một bài làm chứng, Tống Thượng Tiết vẫn còn nhớ như in thái độ cung kính thành khẩn tràn đầy tự tin. Đức tin với từ tâm, tương giao với Chúa của cô luôn luôn nổi bật trong tâm khảm của ông. Nhất là những lời giảng tràn đầy quyền năng và sức sống như vẫn còn vang vang trong trí nhớ của ông. Trong bài làm chứng ấy, ông viết dưới hình thức một bức thư dài cho người bạn, ghi lại những cảm nghĩ như vẫn còn tươi mới trong trí óc ông: “Nếu một người truyền bá Phúc âm mà không có sự sống của Chúa Giê-su thì người ấy không xứng đáng là người chứng cho Chúa. Cuộc trắc nghiệm thuộc linh của Giáo sư Giê-su là người truyền đạo của Chúa đã được báp-tem bằng Thánh Linh chưa và đã được gội nhuần một đời sống tâm linh sung mãn chưa? Giáo sư A-bô-lô trong thời các sứ đồ, khi chưa được báp-tem bằng Thánh Linh cũng đã đi rao giảng Phúc âm, nhưng ông chỉ giảng bằng tài hùng biện của mình. Ngày nay cũng vậy có nhiều người đã tin nhận Chúa nhưng chưa được báp-tem bằng Thánh Linh.”
Trước khi viết xong bức thư, Tống Thượng Tiết thấy lương tâm mình bị cáo trách dữ dội, như một mũi giáo đâm thấu suốt tâm can. Ông cảm thấy hổ thẹn, bởi chính ông nghĩ rằng, vào Chủng viện với mục đích sau này hầu việc Chúa, nhưng ông vẫn chưa được báp-tem bằng Thánh Linh. Tống Thượng Tiết ngừng bút, vào phòng riêng, trầm tư suy gẫm. Ông bị lương tâm cáo trách như một cơn bão tố, ông bắt đầu khóc nức nở…
CHƯƠNG 20
TÁI SANH – NGÀY 10 THÁNG 2 NĂM 1927
Sự khao khát trong lòng Tống Thượng Tiết được khơi dậy qua hình ảnh và lời giảng của cô diễn giả trẻ tuổi trong kỳ Đại Hội Phấn Hưng năm ngoài. Ông quyết định từ bỏ tất cả mà chỉ chuyên tâm tìm kiếm báp-tem bằng Thánh Linh, hầu mong nhận được SỰ SỐNG. Nhưng khốn thay, đi đến đó bằng lối nào đây? Trong lúc các bạn cùng lứa phê phán và chỉ trích là cô ta chỉ lợi dụng tình cảm nhất thời mà mê hoặc lòng người. Khi những lời này đến tai ông thì ông nghĩ rằng: nếu tôi có được quyền năng giảng dạy đầy sức sống như vậy và có được những lời cầu nguyện đầy linh lực, nếu có bị mang tiếng là mê hoặc lòng người hay chỉ là khơi động tình cảm thì tôi cũng cam chịu.
Những ngày nghỉ mùa đông đã đến, Tống Thượng Tiết tận dụng những ngày này để nghiên cứu thêm nhiều sách vở tài liệu về những vĩ nhân Tin Lành. Mỗi khi đọc xong 1 tác phẩm, đều reo lên một lời tán thưởng, và mừng vui: Ôi! Họ là những con người thật có sự sống, họ là những con người tràn đầy sức sống thuộc linh, ông rất đỗi kinh ngạc vì những sức mạnh tâm linh thật là diệu kỳ và vĩ đại. Lòng ông dâng lên một niềm khát vọng: Làm sao đạt cho được quyền năng kỳ diệu ấy?
Đêm 30 Tết âm lịch năm 1926, khi đang quỳ gối cầu nguyện, Tống Thượng Tiết nghe Đức Chúa Trời nói với tâm linh ông: “Ta sẽ hủy phá sự khôn ngoan của người khôn ngoan, tiêu trừ sự thông biết của người thông biết”. Tiếng nói thật êm dịu, ôn tồn, nhưng với ông, sao nghe như một tiếng sét bên tai. Toàn thân ông run rẩy, và gợn lên một niềm hãi sợ lạnh băng. Trong nơi sâu thẳm của suy tưởng, ông nhận biết câu nói này quả là chân lý. Tri thức, tài năng, tất cả những gì của con người chỉ là hư ảo và vô nghĩa. Đời người như quả bong bóng nước trong mưa, bọt bèo trôi giạt trên sông. Sống là chất chồng khổ đau, bi đát; chết là vào cõi hư vong lững lờ… Tinh thần bất an, tâm tư hốt hoảng, những canh của đêm trôi qua không sao chợp mắt được.
Buổi sáng đầu năm 1927, một cơn gió nhẹ nhàng thổi vào như càng lay động niềm hoang mang trong ông. Từng ngày một lặng lẽ vô tình trôi qua, tâm tư ông càng trĩu nặng thêm với năm tháng. Thân thể rã rời, tâm hồn bất an. Khi không còn một chút năng lực để làm một việc nhỏ nào thì trong tâm tưởng ông vang lên một câu hỏi khó giải: “Tại sao tôi phải sống một cuộc sống khổ đau trong thế tục hư không này?”. Càng quằn quại sống với na đề, lòng ông càng co thắt, hơi thở năng lực như nghẹt ngòi, cuộc đời giàn trải trước mắt ông như một đêm tối đen vô tận! Cuộc tranh chiến của Sa-tan và Đức Thánh Linh cũng đã đến cao điểm ác liệt, đây là giây phút phân thắng bại giữa tội ác và lẽ phải. Thời điểm mà Tống Thượng Tiết sống với nội tâm đau thương ấy là ngày 10 tháng 2 năm 1927. Cuộc ác chiến đó được mô tả qua lời cầu nguyện của ông: “Tối hôm đó tôi cầu nguyện, không những cầu nguyện với tất cả lòng thành khẩn, hối hả mà cầu nguyện với cả tấm lòng ăn năn xin Chúa giết chết bản ngã nhơ nhớp. Với nước mắt sám hối, tôi kêu than với Chúa xin huyết Ngài đến phủ che tôi, khiến tôi không còn sống cho con người của tôi nữa, không còn mơ ước những xa hoa phù phiếm của cuộc đời hư vinh, xin triệt hạ khỏi con những mưu kế, hoạch định xây dựng lâu đài trần gian. Tôi đã đến với Chúa với tấm lòng trần trụi, không che đậy, không giấu diếm. Tôi xin Chúa xót thương thân thể dơ dáy, tấm lòng gian ác và linh hồn tôi đang chịu khổ đau dưới sự dày vò của ma quỉ.”
Qua những lời cầu nguyện bi thống đó, Linh của Đức Chúa Trời bắt đầu vận hành trong đời sống của Tống Thượng Tiết. Bắt đầu từ 10 giờ đêm hôm đó, những màn của tội ác trong vở kịch “cuộc đời Tống Thượng Tiết” đã diễn lại một cách chi tiết, rành mạch đến độ trần trụi không chi giấu diếm. Những tội lỗi không cứ nặng nhẹ, phơi bày không thiếu sót một chi tiết nhỏ nào trước mắt ông, thậm chí những tội mà trước đây ông không ý thức được là tội, thì nay cũng được khơi dậy và cáo trách khiến ông thật đau xót. Và khốn khổ nhất là ông không thể nào từ bỏ được những tội lỗi đó. Tống Thượng Tiết thấy mình quả là một “tội nhân” đáng chết mất trong lửa địa ngục đời đời. Những tội lỗi tuần tự giàn trải ra trước mắt, lòng ông càng đớn đau, như những mũi giáo đâm vào tâm tư. Ông nhắm mắt lại cố tình xua đuổi những ký ức xấu xa ấy, nhưng bất lực! Trong cơn bối rối tột cùng đó, ông bèn nhớ lại quyển Thánh Kinh Tân Ước của mình bị lãng quên dưới đáy rương từ lâu. Ông vội vã lấy ra đọc.. đến chương 23 của Phúc âm Lu-ca nói về vì tội ác của con loài người mà Chúa Giê-su phải chịu đau thương vác thập tự giá đi lên đồi Gô-gô-tha, ông thấy mình như cũng cùng vác thập hình và cùng bước đi xiêu tó với Chúa Giê-su trên đường đến Gô-gô-tha hoang vắng, cô đơn. Ông thấy mình là một tội nhân bị lên án tử hình trên thập tự giá và chính mình cũng tự quằn lưng vác thập tự, không dám ngẩng mặt nhìn bất cứ một ai, chỉ biết lảo đảo bước theo chân của Chúa. Giây phút cực hình đó quả là quá sức chịu đựng của ông. Cả một gánh nặng trên lưng dường như trì xuống đè trên thân thể Tống Thượng Tiết cho đến chết. Hình ảnh Chúa Giê-su bị treo cao trên cây thập tự, đầu gục nghiêng sang một bên, hai bàn tay máu tuôn xối xả. Thảm cảnh đó khiến ông đau đớn không nguôi. Ông khiêm tốn quỳ xuống bên cây thập tự, rồi sấp mình mình nằm dài trên đất, ông bày tỏ tấm lòng ăn năn đến tận cùng sám hối của mình. Ông cầu xin Chúa dùng huyết báu của Ngài rửa sạch mọi điều gian ác trong con người ông.
Tống Thượng Tiết khẩn thiết cầu nguyện như thế cho đến khi nghe tiếng đồng hồ điểm nửa đêm, thì thình lình ông cất tiếng hát ca vang Ha-lê-lu-gia vì gánh nặng tội lỗi như đã được cất đi. Con người ông nhẹ nhõm, bồng bềnh tựa mây trời, ông nhảy múa ca hát ngợi khen Chúa. Bỗng chốc, cuộc diện lại xoay chiều, lại một tiếng nói êm dịu, nhỏ nhẹ bên tai: “Con bé mọn yêu dấu, tội con đã được tha…”. Chắc chắn đó là tiếng nói của Con Đức Chúa Trời, Đấng có thẩm quyền tha tội. Tống Thượng Tiết thấy được tận mắt mình, chính Con Người đứng trước mắt ông, mặt Ngài tỏ hào quang sáng ngời, đầu Ngài đội vương miện, trên đôi tay Ngài còn dấu đinh xuyên qua…”. Tội con đã được tha và tên con sẽ đổi là Giăng.”. Lòng ông trở nên trống không, thanh sạch như một căn phòng tao nhã, yên tịnh, cửa phòng rộng mở và Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Linh cùng bước vào lòng ông. Lúc đó đúng 1 giờ khuya, rồi tự nhiên thấy thân thể mình đớn đau không sao chịu đựng nổi, tất cả mọi khớp xương cũng như lục phủ ngũ tạng đang bị trọng thương, ông cất tiếng hỏi Chúa Giê-su: “Tại sao cơn đau đớn bỗng nhiên từ đâu đến với con lạ lùng như thế này, thưa Chúa?”. Ánh sáng của Thánh Linh chiếu rọi vào tâm trí ông, khiến ông ý thức được cách rõ ràng chân lý “cùng chịu đóng đinh và chết với Chúa” là như thế.
Sau này khi thuật lại kinh nghiệm diệu kỳ này ông thường nói: “Đêm hôm đó là sinh nhật thuộc linh, một kỷ niệm không thể nào phai mờ trong suốt cuộc đời tôi, và cùng lúc đó tôi nhận được mạng lệnh của Chúa: “Đi rao giảng Phúc âm cho muôn dân cho đến lúc tận thế.”. Và Chúa biểu tôi đổi tên là Giăng (Báp-tít) với dụng ý cho biết: Giăng Báp-tít là tiền phong của Chúa Giê-su trước khi Ngài sanh ra trên thế gian này. Thời đại của chúng ta chẳng bao lâu nữa thì Chúa sẽ tái lâm (trở lại lần thứ 2) nên Chúa cũng muốn có một người tiền phong cho Ngài. Hai sự kiện Chúa đến trần gian lần thứ nhất (Giáng sinh) và Chúa đến lần thứ hai (Tái lâm) có đôi điều giống nhau. Cũng như Giăng là tiền phong cho lần trước, thì lần này tôi là một trong những người được Chúa gọi để làm người tiền phong cho Ngài để rao giảng Nước Trời đang đến gần và Chúa chắc chắn sẽ mau trở lại.
CHƯƠNG 21
VÀO BỆNH VIỆN TÂM THẦN
(THÁNG 2-8 NĂM 1927)
I. KHẢI THỊ
Sau đêm sinh nhật tâm linh không thể quên được ấy, niềm khoái lạc tâm hồn chi phối trọn vẹn con người Tống Thượng Tiết. Gặp ai ông cũng thuật lại công việc kỳ diệu Chúa đã làm trên cuộc đời ông, nhất là đối với bạn bè cùng chủng viện cũng như các giáo sư. Ông can đảm thuật lại cho họ mọi chi tiết một cách dạn dĩ vì biết rằng, những con người theo thần học tân phái đó sẽ chế giễu, sẽ khinh bỉ và công kích khi nghe những điều huyền bí ông kể cho họ.
Có một chuyện mà ông rất ngại thuật cho người khác nghe, nguyên là có một người thật hoàn toàn xa lạ, sau này mới biết ông ta là người Thụy Điển, biếu cho ông một quả địa cầu. Tuy nhận nó trên tay, ông chẳng biết hành động của người khách lạ có ý nghĩa gì. Khi ông đang mông lung nghĩ ngợi thì được Chúa Thánh Linh nhắc nhở: “Phải đi khắp thế gian giảng Tin Lành”. Tống Thượng Tiết rất cám ơn người biếu ông món quà mang biểu tượng sâu sắc đó. Ông mang quả địa cầu về phòng riêng, nhìn kỹ khối cầu tròn, bỗng thấy nó từ từ biến dạng thành một hình chữ nhật khá dài. Dài giống như hình một thân thể con người và đang vác trên vai một cây thập tự thật lớn. Trên đầu có mang những dòng chữ giống như chữ Palestine. Trên ngực thì lại có những dòng chữ Trung Hoa. Rồi cả thế giới như hiện ra tỏ tường trên hình người và trên cây thập tự. Những hình dạng người không ra người, ngợm không ra ngợm. Những dã thú quái đản, gớm ghiếc lờ mờ như ẩn như hiện. Đôi mắt của Tống Thượng Tiết bị cận thị nặng nên ông phải ghé mắt thật gần để nhìn cho kỹ. Ông nhận ra những con quái vật đáng gớm ghiếc đó là những vị ông đã từng ngưỡng mộ và kính phục như thần thánh: Đó là những Mục sư, những Giám đốc học viện, những bậc đại Giáo sư thần học.
Sau khi được đồi mới tâm linh, Tống Thượng Tiết thấy vũ trụ vạn vật là những vinh quang của Thượng Đế cho chúng ta để ngắm xem những vinh hiển và ca tụng bản tính thánh thiện của Ngài. Đồng thời vũ trụ vạn vật là lời chứng cho chân lý của Thượng Đế. Từng cành cây, từng ngọn cỏ, từng đóa hoa… tất cả như bày tỏ sự diệu kỳ, vĩ đại, thánh khiết, quang vinh và trí tuệ tuyệt vời của Chân Thần duy nhất là Thượng Đế.
Sau này, trong cuộc sống của ông, những khi có những tư tưởng đen tối, những lời nó không đẹp lòng Chúa. Ngay cả những tội mà ngày trước kia ông không nghĩ đó là tội, bây giờ hiện về cáo trách thì ông liền mở Thánh Kinh tìm đọc những chương, những câu nào bàn đến “tội lỗi”. Và sau đó ông đến cầu nguyện xưng tội, ăn năn với Chúa, rồi tìm đọc những chương, câu Thánh Kinh, những lời an ủi, những lời hứa tha thứ và những lời hứa ban phúc lành. Lắm khi những ý tưởng tiếc nuối cuộc đời vinh hoa nảy sinh trong đầu ốc ông thì liền xuất hiện những lời nghiêm khắc, những chương Thánh Kinh luận về “sự mục nát vô nghĩa của trần gian này”. Lời Chúa luôn luôn cảnh tỉnh lòng ông. Thánh Kinh, bây giờ chẳng những là thức ăn nuôi dưỡng đời sống tâm linh mà còn là ngọn đèn cho chân ông, hướng dẫn ông đi vào mọi lối ngay thật. Ngoài những thì giờ đọc Thánh Kinh, tương giao riêng tư với Chúa, ông còn để thì giờ để truyền bá Phúc âm.
Ngày 12 tháng 2, 2 ngày sau khi được tái sanh, Tống Thượng Tiết đến tham dự một hội nghị Sinh Viên Quốc Tế. Có được vài phút phát biểu trong hội nghị, ông đã không bỏ lỡ cơ hội làm chứng thể nào Chúa đã thăm viếng và biến đổi cuộc đời và tấm lòng tối đen của ông. Ông cũng gởi lời khuyên nhủ sinh viên, với tất cả tấm lòng chân thành và nước mắt của ông: “Hãy đến gần với Chúa Cứu Thế để hưởng được sự bình an khi được Ngài thứ tha tội lỗi.”. Ông cũng thẳng thắn chỉ rõ những tội lỗi, sai lầm của một số Mục sư, Truyền đạo của Đức Chúa Trời. Ông dạn dĩ mời họ cùng quỳ gối cầu nguyện với ông, xin Chúa tha cho những tội “làm việc cho Ngài cách giả dối”, không trung thành khi rao giảng chân lý. Nhưng những người đó đâu có dễ dàng tiếp nhận lời khuyên chân thành của ông. Số người biết hối cãi quay trở lại con đường chính đáng rất là hiếm, nhưng Chúa cũng ban thêm năng lực và ông không nản lòng.
Trước đây, báo chí Mỹ thường đăng những bài ca tụng những thành quả tốt đẹp của Tống Thượng Tiết trong thời gian hoạt động rất thành công trong Hội Sinh Viên Quốc Tế, ông thường sưu tập và cắt những bài báo đó, dán lại thành một tập tài liệu rất đẹp. Có dịp là mang ra khoe khang với bạn hữu. Nhưng sau khi được Chúa thăm viếng và tái sanh, ông mang những bài báo ca tụng đó đốt hết, đốt luôn cả một số sách giáo khoa của chủng viện Union Theological Seminary. Vốn thích ca hát ngợi khen Chúa, bây giờ được tái sanh rồi ông lại càng muốn ca hát tôn vinh Chúa nhiều hơn nữa. Lúc thì ông ca vang, lúc thì thầm hát, lúc thì chảy nước mắt, lúc thì vui sướng tươi cười: tất cả là ca tụng Chúa, tôn vinh Chúa, trò chuyện với Chúa. Vì có những cử chỉ với thái độ tâm linh bốc cháy như vậy, nên đa số những người trong chủng viện đều cho rằng: “Tống Thượng Tiết bì bệnh tâm thần.”
Ngày 17 tháng 2 ông ra phố mua một cây bút và một quyển Thánh Kinh mới. Trên đường về lòng ông tràn ngập hân hoan, vui thỏa. Đi được một quãng đường, ông thấy một cậu bé rất khôi ngô, mặt mày sáng rỡ như thiên sứ, ngồi bên vệ đường. Tay cậu cầm một bảng nhỏ có viết chữ REST (nghỉ ngơi). Đi một quãng đường nữa, ông lại thấy một cậu bé khác cũng ngộ nghĩnh dễ thương như vậy và tay cũng cầm một bảng nhỏ có chữ REST, nhưng ông cũng không mấy chú tâm. Nhưng chỉ một quãng đường ngắn nữa thì ông lại thấy lần thứ 3. Lại cũng một cậu bé khác, giống như 2 cậu bé kia và tay cũng cầm chữ REST giống hệt như vậy. Ông bắt đầu nghĩ ngợi về sự kiện lạ này. Suy gẫm mãi, nhưng chưa tìm được ý nghĩa thì ông đã về tới nhà trọ.
Trường Union kiến trúc thật là đồ sộ nguy nga, Tống Thượng Tiết nghĩ đến những Giáo sư, những người bạn cùng trường, họ đã ăn cắp tiền của Chúa mà đi làm tôi mọi cho Sa-tan. Ông thấy lòng đau xót, hai dòng nước mắt tuôn dài. Ông đến trường thì cổng đã đóng lại, đó là lệnh của ông Viện trưởng. Chính ông đích thân khuyên Tống Thượng Tiết với những lời nhẹ nhàng nhưng dứt khoát như một mệnh lệnh đinh thép: “Cậu nên đến một nơi thanh vắng nghỉ ngơi một thời gian”. Tống Thượng Tiết nghĩ thầm: Đây là một dịp tốt. Nghỉ ngơi một đôi ngày thì càng có nhiều thì giờ suy gẫm Kinh Thánh. Cũng có thể sau đó tinh thần sẽ được thanh thản, nhẹ nhàng để có thể làm nhiều công việc cho Chúa hơn! Ông không một lời từ chối, cúi đầu yên lặng nghe theo. Trước khi đi, ông xin được vào phòng lấy thêm một vài vật dụng cần thiết, nhưng bị từ chối, ông bị cưỡng ép phải đi theo một người khác. Hành trang “đi nghỉ mát” của ông chỉ vỏn vẹn gồm có một quản bút, mực và quyển Thánh Kinh mới vừa mua!
Xe chạy qua một vùng hoang vắng một khoảng thời gian khá dài, đến khuya mới đến được địa điểm “nghỉ ngơi”. Nhà nghỉ có tên gọi là “Bloodmingdale Hospital”. Đây là một bệnh viện tâm thần nổi tiếng của Hoa kỳ dành cho những người bị thần kinh điên loạn.
Bệnh viện gồm 7 tòa nhà đồ sộ, trang bị rất đầy đủ và qui mô. Tiến sĩ Tống Thượng Tiết được đưa vào tòa nhà số 4. Sau khi vào bệnh viện tâm thần, ông mới thấy ông viện trưởng đã “chuẩn bị chu đáo” từ lâu. Vừa tới nơi ông được “tiếp rước” và đưa đường chỉ lối thật nhanh chóng vào “nghỉ” tòa nhà nào, phòng số mấy đã dành sẵn. Nhân viên bệnh viện bắt ông tắm rửa, thay quần áo trắng của bệnh viện và bảo ông phải về giường nằm nghỉ ngơi. Ông cảm thấy thật khôi hài: Họ đã xem tôi như một người điên thật sự rồi!
II. BỆNH VIỆN TÂM THẦN
Qua hôm sau, các bác sĩ của bệnh viện bắt đầu các cuộc thử nghiệm và trắc nghiệm trên ông. Họ thử máu, hỏi lý lịch: Cuộc đời và dòng họ tổ tiên ông. Họ muốn xác nhận bệnh tâm thần của ông là do hoàn cảnh xã hội hay do di truyền. Ông nói với các bác sĩ rằng: “Thật ra tôi cũng có khả năng để tìm hiểu chính mình có bị bệnh tâm thần hay không, vì chính tôi cũng đã nghiên cứu và hiểu rõ những thuyết di truyền học, quan hệ huyết thống của dòng họ tổ tiên. Tuy tôi không phải là một y-sĩ chuyên khoa danh tiếng, nhưng tôi cũng đã từng nghiền ngẫm những tài liệu sách vở ông đã học và đọc. Nếu những lời tôi nói không đủ cho ông tin, thì ông có thể hỏi lại các sinh viên hay các giáo sư ở đại học Ohio”. Bác sĩ muốn xác nhận những ý nghĩ của ông có rối loạn hay không, ông bèn đọc cho Tống Thượng Tiết nghe một mẩu chuyện ngắn và bảo ông viết lại. Ông viết lại xong, trao cho bác sĩ xem, vị bác sĩ đọc lại, thấy chẳng những ông viết rất đúng, không sai một lỗi chính tả nào mà những chi tiết của mẩu chuyện ông cũng nhớ rất đầy đủ. Vị bác sĩ vô cùng kinh ngạc vì trí nhớ lạ lùng của Tống Thượng Tiết. Ông liền tiếp tục trình bày với vị bác sĩ tâm thần: “Trong khi theo học ở trường tôi đã từng dịch sách “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử, ngoài ra tôi cũng viết những tài liệu về lịch sử như “Cô nhi viện và Bần Cùng viện của Anh quốc”. Tôi cũng viết chú giải sách tiên tri Giê-rê-mi… Qua những bộ sách tôi dịch và viết, ông có thể khảo sát toàn bộ tư tưởng và sinh hoạt của não bộ thần kinh của tôi”. Sau khi nghe Tống Thượng Tiết trình bày về chính mình, vị bác sĩ trầm ngâm yên lặng. Ông chỉ bảo Tống Thượng Tiết nên nằm nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Riêng ông thì trong mình cảm thấy cơ thể mệt mỏi rã rời. Đi vào trong gương thấy mặt mình xanh xao, gầy yếu. Ông lại có cớ để cảm ơn Chúa vì Ngài cho có dịp nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mà không phải tốn kém! Ông thầm hy vọng rằng sau một vài tuần sức khỏe sẽ trở lại. Thân thể sẽ tráng kiện, tinh thần sẽ minh mẫn lại và trở về hầu việc Chúa đắc lực hơn. Lúc đó ông mới nhớ lại 3 cậu bé dễ thương với chữ REST trong tay mang ý nghĩa gì riêng tư đối với chính mình. Tất cả đều nhận mạng lệnh từ Đấng Chí Cao. Thật Ngài đã chuẩn bị cho ông được nằm trong bệnh viện để ngơi nghỉ.
Bệnh viện có chế độ chăm sóc và tiếp đãi rất chu đáo và hậu hĩ. Những thức ăn đầy dinh dưỡng, nhưng ông không ham thích chi những vật chất này. Điều khiến cho khổ tâm hơn cả là mọi người trong bệnh viện không đối xử với ông như một học giả có lý trí, suy nghĩ bình thường. Ngược lại họ xem ông như một người bệnh điên. Thậm chí họ xem ông như một phạm nhân mang trọng tội đang bị giam giữ. Tất cả những sinh hoạt của ông đều bị kiểm soát, và ông muốn làm điều gì đều phải được bác sĩ cho phép mới được. Những y tá “chăm sóc” ông thật là cẩn mật. Họ có thái độ thật lạnh lùng và nhìn ông với đôi mắt e dè.
Bác sĩ muốn khảo sát xem có những biến thái trầm trọng nào trong tư tưởng của Tống Thượng Tiết, nên họ đã đến phòng của ông trọ tại Union Theological Seminary để lục lọi tất cả những thư từ của những người thân gửi cho ông. Họ lục soát trong rương của ông và đọc tất cả những thư từ này. Tống Thượng Tiết thấy họ làm như vậy kho6nf khỏi cười thầm cho những bác sĩ thơ ngây này: “Nếu muốn khảo sát biến chứng tư tưởng của Tống này thì phải tìm đọc những thư từ do chính Tống này viết ra cho bằng hữu thân quyến, chứ sao lại đọc những bứu thư từ ngoài gửi vào. Tác giả những bức thư đó đâu có tương quan gì đến biến thái tư tưởng của Tống bỉ nhân này đâu?”. Dĩ nhiên, trong thời gian Tống Thượng Tiết ở trong bệnh viện, tất cả những thư từ của những thân nhân gửi cho ông đều bị các bác sĩ kiểm duyệt và chính họ trả lời hộ. Họ đã báo cho thân nhân biết là Tống Thượng Tiết bị bệnh tâm trí nặng nên không thể viết thư hồi âm được. Những sự kiện này đã làm cho Tống Thượng Tiết rất đau đớn. Thân thể, tư tưởng đều mất hết tự do.
Tầng nhà số 4 là dành cho những bệnh nhân trầm trọng. Sức khỏe ông đã tiến triển nhiều, tình thần phấn chấn nên các bác sĩ đã dời ông qua dãy nhà số 6. Một tuần lễ sau lại dời đến dãy số 2. Theo nhận định của bác sĩ thì bệnh tình của Tống Thượng Tiết chỉ cần nằm bệnh viện 40 ngày là có thể xuất viện. Nhưng ngày tháng cứ trôi qua, hy vọng ra khỏi bệnh viện vẫn bặt tăm. Ông không còn kiên nhẫn được nữa, bắt đầu than phiền và nặng lời với cả các bác sĩ. Các bác sĩ tức giận và giam ông vào dãy nhà số 7, là nơi giam giữ những bệnh nhân nặng và hung dữ, đánh nhau và chửi bới nhau rất thô lỗ. Trong dãy nhà giam này thật là ồn ào, mất trật tự, Tống tiên sinh không một chút thì giờ yên tĩnh để nghỉ ngơi. Ông xin được dời qua dãy nhà số 3, nhưng lời thỉnh cầu của ông không được chấp thuận. Người nằm kế ông là một người điên rất nặng. Ông ta vốn là một người rất giàu có. Hành động của ông rất kinh sợ: Có những lúc ông khóc lóc thảm thiết và la lớn lên rằng: “Ngày trước tôi đã phạm tội thông dâm cùng người cô ruột”. Một lần nọ ông cắn lưỡi, máu chảy ra lênh láng. Các bác sĩ phải vào để cấp cứu, nhưng rồi ông cũng trở lại trạng thái bình thường. Tống Thượng Tiết lân la làm quen và hỏi ông có sự làm sao như vậy. Ông này trả lời rằng, ông đang bị lửa địa ngục thiêu đốt, đau đớn không thể chịu đựng được nên phải cắn lưỡi tự tử.
Chiều ngày 23 tháng 6, Tống Thượng Tiết thấy người thanh niên y tá “chăm sóc” và canh phòng ông, đang ngủ gục rất say. Nghĩ rằng đây là dịp may đề thoát thân, nên ông đã nhảy từ cửa sổ xuống hành lang và thoát chạy. Trốn ra khỏi bệnh viện, băng mình chạy được vài ba dặm và ẩn mình trong một đám lúa mạch, ông hy vọng sẽ chẳng có ai rượt đuổi và theo dõi mình, nhưng chỉ một lát sau thì ông đã bị một con chó cảnh sát phát giác và bị bắt lại, áp giải trở về bệnh viện!
III. TRƯỚC VÀ SAU KHI XUẤT VIỆN
Các bệnh nhân ở dãy nhà số 7 luôn ngày đánh đấm nhau, chửi bới tục tằng, múa may, la hét ầm ĩ. Tống Thượng Tiết không có được một giây phút yên tịnh. Lại thêm bên cạnh luôn luôn có cảnh sát viên theo dõi. Ban đêm khi đi ngủ anh ta cũng nằm ngủ bên cạnh. Công việc hàng ngày là bệnh viện bắt ông phải đan rỗ rá, đan xong lại tháo ra đan lại. Suốt ngày phải làm cái công việc vô nghĩa và vô ích ấy, lòng ông thật là đau xót. Nếu một người không ở vào hoàn cảnh đó thì không thể nào thấu hiểu được tâm trạng ấy.
Vào một đêm trăng tàn cuối tháng, lòng ông nặng trĩu buồn đau, những nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình, cha mẹ cùng những người thân yêu. Ông cũng nghĩ ngợi đến quá khứ, hiện tại rồi tương lai… ý nghĩa đau buồn choán ngợp tâm tư. Tống Thượng Tiết có ý định kết thúc đời mình bằng con đường tự sát – thật là một ý nghĩ điên rồ. Trong giây phút tuyệt vọng đó, ông lại nghe được một tiếng nói êm dịu của Chúa: “Con bé mọn của Ta, con đã được huyết của Ta chuộc về, sao lại còn có ý định từ bỏ cuộc sống mình dễ dàng như vậy?”. Và ông đã trả lời với Chúa: “Chúa ôi, con là một người hèn mọn. Con không còn một hy vọng gì để có một ngày thấy lại trăng sao. Con muốn đền ơn cứu chuộc của Chúa mà không biết phải làm sao. Con thấy bây giờ sống không bằng chết, nên con muốn kết thúc cuộc sống mình”. Tiếng nói của Chúa lại tiếp tục khuyên nhủ: “Mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Nếu con nhẫn nại sau khi trải qua 193 ngày thì con sẽ hiểu được cách làm thế nào để vác thập tự giá mình mà theo Ta, đi con đường vâng phục Gô-gô-tha”. Thế rồi những vầng bóng tối trước mặt như dần dần tan biến, vinh quang của Chúa lại rạng ngời chung quanh con người của ông. Một tuần sau, ông khẩn khoản xin được dời qua dãy nhà số 6. Ông trình bày rõ là không phải vì thần kinh rối loạn mà ông đã “trốn trại”, nhưng vì tánh tình thích tự do hoạt động. Lần này lời thỉnh cầu của ông được chấp thuận, và ông được dời qua dãy nhà số 6. Người y tá “chăm sóc” cho ông dần dần cũng được cảm hóa, không có thái độ lạnh lùng gay gắt với ông nữa. Anh ta chấp thuận giúp chuyển thư cho ông ra ngoài. Vui mừng. Tống Thượng Tiết vội vàng viết một bức thư gửi cho tòa Lãnh sự Trung Hoa tại Hoa Kỳ, báo cáo là ông ta vô cớ bị người Mỹ giữ trong bệnh viện tâm thần, mất tất cả quyền tự do ngôn luận và đi lại. Xin tòa Lãnh sự can thiệp với chính phủ Mỹ cho trường hợp phi lý của mình.
Ngày 30 tháng 8, một người bạn cố tri của Tống Thượng Tiết là Giáo sĩ, Tiến sĩ Rolling Walker, mới từ Châu Âu về nước. Walker nghe tin Tống Thượng Tiết bị vào bệnh viện tâm thần, liền đến Nữu Ước thăm. Tống Thượng Tiết nhìn lại người bạn cố tri thì không cầm được nước mắt, và dã tuần tự kể hết mọi diễn biến rất chi tiết cho bạn. Giáo sĩ Walker an ủi bạn và lập tức xin gặp viên Y sĩ trưởng Giám đốc Bệnh viện. Vị Giám đốc này tỏ ý rằng, nếu giáo sĩ Rolling Walker chịu ký giấy bảo lãnh thì Tống Thượng Tiết sẽ được xuất viện. Trong lúc đó, vị y sĩ trường này đã nhận được lệnh của Chính phủ Hoa kỳ bắt phải điều tra nội vụ của Tống Thượng Tiết. Rất có thể đây là kết quả của sự can thiệp của Đại sứ quán Trung Quốc tại Hoa kỳ. Tình hình có vẻ nghiêm trọng và nóng bỏng, viên y sĩ trưởng chưa biết phải giải quyết như thế nào thì có người muốn bảo lãnh cho Tống Thượng Tiết! Dịp may, đúng lúc kịp thì, Giáo sĩ Rolling Walker như một ân nhân cất đi cho viên y sĩ trưởng một gánh nặng trách nhiệm. Tống Thượng Tiết được trả tự do ra khỏi bệnh viện tâm thần. Từ ngày nhập viện cho đến lúc xuất viện là đúng 193 ngày không thừa, không thiếu một ngày. Đúng như lời Chúa đã báo trước cho ông.
Sau này, hồi tưởng lại, Tống Thượng Tiết rút ra được 2 bài học trong thời gian ở trong bệnh viện tâm thần:
Chúa muốn tôi luyện thành một con người biết vâng phục, với tánh tình thuần hậu. Ngày ông biết đầu phục Chúa trọn vẹn, đó là ngày ông xuất viện, cũng là ngày mà Tống Thượng Tiết nhận được cấp bằng tốt nghiệp thần đạo đích thực từ chính nơi Đức Chúa Trời.
Chúa cũng dạy cho ông một bài học thật khúc chiết về Thánh Kinh. Trong bệnh viện ông đã sử dụng 40 nguyên tắc mà Chúa đã mặc khải cho ông. Trong thời gian này ông đã đọc được 40 lần toàn bộ Kinh Thánh. Lúc ấy ông mới thực sự nhìn nhận Thánh Kinh quả là Lời Đức Chúa Trời và do chính Ngài mặc khải, do Chúa Thánh Linh cảm thúc để từng câu của Thánh Kinh được viết ra. Mỗi chương của Thánh Kinh được viết thành như là vì lợi ích thiết thực của đời sống tâm linh của chính ông.
Bước thứ nhất, Chúa cho Tống Thượng Tiết nhìn những bức tranh. Chúa chỉ cho ông những điểm quan trọng của từng chương, sau đó Chúa đưa dẫn vào từng chi tiết, từng chữ, từng lời. Những bài học thâm thúy sâu sắc như những từ ngữ: tình yêu thương, đức tin, sự công nghĩa v.v.. đã dạy cho ông thấu triệt toàn bộ Thánh Kinh. Quả là một bài học vĩ đại mà ông đã học được từ nơi chính Chúa trong thời gian bị giam trong bệnh viện tâm thần. Trong tác phẩm “Lời Chứng Của Tôi”, Tống Thượng Tiết có viết rằng: “Chỉ vài ngày sau khi xuất viện tôi đã ghi chép tất cả những phương pháp đọc Kinh Thánh của Chúa Thánh Linh dạy tôi cách tỉ mỉ. Phần lớn những điều Chúa dạy dỗ tôi, tôi đều chia sẻ lại cho người khác. Nhưng cũng có những điều Chúa bảo tôi phải giấu kín, tôi đã vâng phục Ngài và cất tận đáy lòng những điều phải giữ kín. Ban đầu tôi ghi chép những bài học ấy bằng Anh ngữ, nhưng vì biết có người đã xem lén, nên sau tôi dùng Hán tự để ghi chép”.
Sau khi ra khỏi bệnh viện tâm thần, Tiến sĩ Walker mời Tống Thượng Tiết đến sinh quán của Tiến sĩ là Cincinati, và lưu lại đó với gia đình Walker một thời gian ngắn. Cùng lúc ấy Viện trưởng Chủng viện Union Theological Seminary sai người mang tất cả hành trang, vật dụng của Tống Thượng Tiết trao trả cho ông. Từ đó ông không còn một liên hệ nào với Chủng viện Union, mà sự thật thì Chủng viện này cũng đã xóa tên Tống Thượng Tiết ra khỏi danh sách nhà trường từ lâu. Chủng viện Union không được chia sẻ một chút vinh dự nào với “Ông Wesley” của Trung Hoa. Về sau một Giáo sư của Chủng viện còn tuyên bố rằng: Chủng viện Union không có một chút liên hệ nhỏ nào với Tống Thượng Tiết”.
Những mặc khải mà Tống Thượng Tiết nhận được từ nơi Chúa trong thời gian lưu lại tại bệnh viện tâm thần Bloodmingdale thật là phong phú và quan trọng. Những điều Chúa đã chỉ trước cho ông, về sau từng hồi từng lúc tất cả đều được trở thành sự thật. Có những điều lúc còn trong bệnh viện ông chưa hiểu rõ được ý nghĩa, mãi về sau, khi những điều đó thực hiện ông mới vỡ lẽ và thấu triệt những điều dạy dỗ kín nhiệm đó. Ông cho biết cũng có những mặc khải ông không dám bày tỏ cùng ai. Vì nói ra những điều đó người đời hiểu lầm và cho là ông đã quá kiêu ngạo và tự tôn. Chính ông cũng sợ người ta tôn mình lên quá cao. Tống Thượng Tiết rất thấu hiểu tâm trạng của Phao-lô khi được Chúa nhắc lên từng trời thứ 3 và bày tỏ cho ông những mặc khải trong tương lai. Đến 14 năm sau Phao-lô mới dám nhắc lại! Tống Thượng Tiết cũng chung một tâm trạng với Phao-lô như thế.
CHƯƠNG 22
HÀNH TRÌNH HỒI HƯƠNG
(NGÀY 9 THÁNG 10 NĂM 1927)
Tống Thượng Tiết ở lại Cincinati khoảng 1 tháng, tấm lòng thanh lặng, đợi chờ tàu để trở về quê hương Trung Quốc. Trong thời gian đó có một Mục sư mời ông về nhà dùng cơm, sau đó xin ông cho nghe một vài bản dương cầm. Trong lúc ông chơi đàn có một cô gái vừa mù vừa điếc lại vừa câm ngồi gần bên, 2 tay cô tựa trên cây đàn. Khi Tống Thượng Tiết đàn xong, vị Mục sư mời cô gái tật nguyền ấy chơi đàn. Cô ngồi vào đàn và dạo lại những bản mà cô vừa nghe, đánh không sai một nét và tiếng đàn cô cũng rất điêu luyện. Có một người đến nâng bàn tay của cô lên, cô cảm biết ngay người ấy muốn yêu cầu cô đàn bản nào. Điều này gây cho Tống Thượng Tiết một ấn tượng thật sâu sắc và đó là cũng là một bài học rất lớn mà ông đã nhận được sau này. Ông biết chắc đây là bài học Chúa muốn ban cho mình. Nhiều lần ông tâm sự rằng: “Chúa muốn tôi trong những ngày sau rốt này cũng giống như cô gái có 3 tật nguyền ấy: Tai không nên nghe, mắt không nên thấy và miệng không nên nói điều gì không xứng đáng. Muốn làm tôi tớ của Đức Chúa Trời thì thứ nhất, đôi mắt phải không nhìn thấy thế giới tài lợi, đôi tai không nghe những lời lăng mạ, sỉ nhục, và miệng không trả lời những câu châm chọc chế giễu của người khác. Nếu làm ngược lại thì không đáng vác thập tự giá mình mà theo Chúa. Chỉ có 2 bàn tay là phải luôn luôn làm công việc Chúa muốn tôi làm để hoàn tất ý muốn tốt lành của Ngài. Chúa đã dạy tôi, cuộc sống thật sự của một tôi tớ Ngài là không còn nhìn thấy thế gian và chỉ chăm nhìn vào Ngài mà thôi. Đôi tai không cần phải nghe một thứ tiếng nào khác ngoài tiếng nói của Chúa. Trước những bắt bớ, sỉ nhục không cần phải biện bạch thanh minh, chỉ nên dùng môi miệng để truyền giảng Phúc âm của Chúa mà thôi. Đôi tay dành cho những cử chỉ, hành động để bày tỏ được lòng nhân từ của Ngài. Chúa cũng dạy tôi phải giống như Phao-lô là đóng đinh cùng với Chúa trên thập tự giá: “Hiện nay tôi sống không phải là tôi sống nữa , nhưng Chúa Cứu Thế sống trong tôi”.
Ngày 4 tháng 10, những ngày vào mùa thu, gió lạnh. Tống Thượng Tiết giã từ người bạn tri kỷ trong lúc hoạn nạn, qua Seattle để đáp tàu biển về nước. Tàu nhổ neo ngày 11. Sống, học trên đất Mỹ được 7 năm rưỡi. Bây giờ về nước với chìa khóa vàng, huy chương vàng, văn bằng cử nhân, cao học và tiến sĩ. Nhưng trong thâm tâm ông chỉ nhớ lại giấc mơ muôn người chết đuối trên biển cả, khải tượng diệu kỳ về 5 cái bánh và 2 con cá nuôi được hơn năm ngàn người no nê và khải tượng trong giấc mơ gần đây nhất còn như in trong trí nhớ. Ông thấy mình như nằm trong một cỗ quan tài, đang mặc mũ áo của ngày ra trường với cấp bằng tiến sĩ. Ông tuyên bố với thế gian và với chính mình: “Thế gian đối với tôi như đã chết rồi, tôi đối với thế gian cũng vậy.”. Đó là lời kêu gọi thật tỏ tường của Chúa đối với ông, nhưng đồng thời thế gian cũng có lời mời gọi quyến rũ thật mãnh liệt. Nó cũng trưng bày ra những lý cớ rất “thuộc linh”: Bây giờ mình là một tiến sĩ hóa học có thực tài, hứa hẹn về sau trong lãnh vực này sẽ có danh tiếng trên trường quốc tế. Trên nền tảng đó phải chăng là tiếng nói mạnh mẽ của Phúc âm. Nếu theo con đường này, không những về học vấn sẽ thăng tiến và cống hiến nhiều cho quốc gia dân tộc, đồng thời cũng tạo nên một nền tài chánh vững vàng mạnh mẽ cho Hội Thánh. Hơn nữa đối với người cha, suốt đời là một người Truyền đạo nghèo khổ, nay đã về già, cũng có thể hưởng được những ngày bóng xế phúc hạnh từ đứa con công thành danh đạt, và mình cũng trả được cái ơn sinh thành dưỡng dục cho song thân. Như vậy đó không phải mình đã một lúc thực hiện được nhiều việc tốt lành sao? Những tranh chấp tâm linh tế nhị này đeo đuổi Tống Thượng Tiết suốt cuộc hành trình hồi hương. Càng gần đến địa phận Trung Quốc, cuộc tranh chấp lại càng thêm ác liệt. Ông đã dâng tất cả khả năng của mình trên bàn thờ Đức Chúa Trời: “Chẳng lẽ Chúa không dùng khả năng của mình để làm vinh hiển danh Ngài sao? Chúa không có một đường lối nào khác đối với ta sao? Nhưng rồi một lập luận của Thánh Kinh đã đánh đổ những lập luận quanh co của chính tôi: Những ưu điểm ấy nay tôi coi là điều thất bại; vì tôi hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa Cứu Thế. Vâng, tất cả những điều ấy đều trở thành vô nghĩa nếu đem so sánh với điều quý báu tuyệt đối này: Biết Chúa Giê-su là Cứu Chúa tôi. Tôi trút bỏ tất cả, kể như vô giá trị, cốt để được Chúa Cứu Thế…” (Phi-líp 3:7, 8 (BDY) Tống Thượng Tiết noi gương Phao-lô đã bỏ hết mọi danh lợi thuộc về thế gian. Khi con tàu gần đến lục địa Trung Hoa, ông lấy từ đáy rương chìa khóa vàng, huy chương danh dự… quẳng tất cả xuống biển. Câu chuyện đáng lý phải được mọi người biết này, thì ông đã không ghi lại trong quyển tự truyện của đời mình. Chỉ đề cập đến có một lần trong một trại bồi linh ở Thượng Hải. Ông chỉ giữ lại 2 mảnh bằng tiến sĩ với ý định sẽ dâng lên cho song thân hầu cho cha mẹ vui lòng. Năm 1928 trong một bài giảng tại Hội thánh Phước Châu, Tống Thượng Tiết có nhắc đến 2 văn bằng tiến sĩ đó, ông cũng chỉ tặng lại cho mẹ mà thôi. Mục sư W.B.Cole cũng xác nhận rằng, ông đã từng nhìn thấy mảnh bằng đó được đóng khung treo trong nhà Tống Thượng Tiết, và khi ông ghé mắt nhìn xem thì Tống Thượng Tiết nói rằng: “Những loại rơm rác này không dùng chi cho tôi được!”
CHƯƠNG 23
VỀ HƯNG HÓA
I. VỀ ĐẾN NHÀ
Vừa đến Thượng Hải, Tống Thượng Tiết liền lột bỏ âu phục và mặc lại chiếc áo dài vải thô, đáp tàu nhỏ về nhà ngày 8 tháng 11 năm 1927. Về lại cố hương Hưng Hóa sau 7 năm cách biệt, gặp lại những người thân yêu, mừng mừng, tủi tủi bắt tay nhau. Ông không dám giáp mặt ngay người cha già mòn mỏi nhớ con đi xa, nay có vẻ ốm yếu hao gầy, trên trán cụ in hằn thêm nhiều vết nhăn của tháng năm mong đợi. Cả gia đình đều rất vui sướng đón mừng ông trở về. Cụ Mục sư Tống Học Liên gặp con và mở lời: “Con về lại quê hương là một điều đáng mừng, vậy chúng ta nên lập một buổi cầu nguyện ngợi khen và tạ ơn Chúa”. Cụ nấu hủ tiếu Hưng Hóa cho con điểm tâm tiếp: “Ba đã già, ba mong con về đây để làm một giáo sư”. Tống Thượng Tiết trả lời: “Thưa cha con đã chết rồi, người về đây không phải là con nữa”. Cụ rất đỗi ngạc nhiên: “Chẳng phải là Tống Đại đầu, con ta, về đây thì là ai? Chẳng nhẽ lại là ma?”. Ông thưa lại: “Thưa cha: Chúa muốn con đi làm người Truyền đạo cho Ngài”. “Nếu con muốn làm một Mục sư thì hà tất phải sang Mỹ học làm gì?”. Cụ hỏi các con Thượng Hòa, Thượng Bình, Thượng Chính, Thượng Trực nghĩ sao, thì họ đều trả lời: “Người ta đồn rằng, anh đã bị bệnh thần kinh nặng thật không ngoa! Anh là một người đang sống, sao lại bảo rằng mình đã chết rồi? Như vậy chẳng hay ho, may mắn gì, lại còn về nước để đi làm người Truyền đạo, như vậy thì đi du học làm gì cho khổ thân”. Mọi người đều không vui vì thái độ của Tống Thượng Tiết, lặng lẽ bỏ đi nơi khác. Chỉ còn lại một mình với mẹ, bà an ủi Tống Thượng Tiết: “Cha và các anh em con đều mong con về để nở mặt nở mày gia tộc, tổ tiên. Sao con lại nói những lời khiến cả gia đình buồn lòng?”. Thượng Tiết ôn tồn đáp lời mẹ: “Chúa muốn con làm người Truyền đạo cho Chúa”. Thấy thái độ cương quyết bà cũng tỏ vẻ buồn lòng, nhưng không muốn nói gì thêm nữa.
Đêm hôm ấy Tống Thượng Tiết thấy lòng mình bồi hồi dao động, tiếng Chúa lại đến nhắc nhở: “Nếu con yêu cha mẹ hơn Ta, thì không đáng làm môn đồ Ta; nếu con quả thật yêu Ta thì nên mang tất cả những gì con có giúp cho cha mẹ, anh em con, còn con thì theo Ta”. Tống Thượng Tiết vâng lời Chúa đem số tiền 1.700 Mỹ kim dành dụm được khi đi làm trên đất Mỹ, trao cho cha và nói rằng: “Thưa cha số tiền này con dành dụm để cho các em làm học phí”. Ông cũng mang áo quần, vật dụng cùng sách vở của mình trao hết cho các anh chị em. Riêng mảnh bằng tiến sĩ thì ông biếu cho mẹ. Như vậy Tống Thượng Tiết chỉ còn lại một thân thể, một con người “trần trụi” nhưng đã được mua chuộc bởi huyết của Cứu Chúa Giê-su. Đó cũng là vật duy nhất bắt buộc phải dành lại để làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời.
Mẫu đối thoại trên đây của gia đình họ Tống trong ngày người con đi du học xa về cũng có nguyên nhân xâu xa của nó. Vốn là, những ngày Tống Thượng Tiết bị nhốt trong bệnh viện tâm thần, nhân viên của chủng viện Union khi nhận được thư của gia đình ông thì họ đã tự ý viết thư trả lời và nói vì lý do bị loạn thần kinh rất nặng, ông đưa vào dưỡng trí viện chữa trị nên không thể trả lời thư cho gia đình được. Gia đình bên kia bờ Thái Bình Dương phải tin đó lả sự thật. Nên khi Tống Thượng Tiết về nhà, cha mẹ cũng như mọi người trong gia đình cũng bán tính bán nghi. Nhưng sau một vài tuần lễ quan sát sinh hoạt, lối sống của ông thì không có dấu hiệu gì là của một người bị loạn thần kinh cả. Họ chỉ thấy một năng lực mới và một nếp sống tâm linh mới đã nhận được từ Thiên Thượng.
Một tháng sau khi hồi hương, cụ Mục sư Tống Học Liên khuyến khích con đến các Hội Thánh làm chứng các ơn phước và những vĩ đại kỳ diệu mà Chúa đã làm trên cuộc đời mình. Ngôi trường ngày xưa Tống Thượng Tiết đã theo học tại Hưng Hóa, nghe tin ông đã hồi hương với cấp bằng tiến sĩ khoa học, thì rất lấy làm vinh dụ. Họ chuẩn bị một đại hội thật lớn để chào mừng người cựu học sinh của trường nay đã trở thành một tiến sĩ. Những thầy giáo cũ cũng như tất cả thính giả đều lấy làm ngạc nhiên vì không nghe Tống Thượng Tiết nói chi về khoa học, lòng yêu quê hương tổ quốc; ông cũng không kể chi đến những chuyện xa lạ trên đất nước Hoa Kỳ văn minh, mà họ chỉ nghe ông nói về 5 cái bánh và 2 con cá là bài học lớn nhất trong đời mình. Một thời gian ngắn sau thì ông được mời làm giáo viên trường trung học Hưng Hóa. Tuy biết chắc chắn rằng mình đã được Chúa kêu gọi đặc biệt để làm ngưởi Truyền đạo rao giảng Phúc âm cho Chúa. Hiện thời chưa có một lối đi nào rõ ràng, thêm vào đó sự khó khăn chật vật của gia đình về tiền bạc. Phí tổn cho các em trong khi theo học ở đại học là cả một gánh nặng cho hai già, nên Tống ông phải nhận dạy một lúc tại 2 trường nam và nữ trung học Hưng Hóa. Tống Thượng Tiết dạy 2 môn Hóa Học và Thánh Kinh , mỗi môn 4 giờ. Một tuần ông dạy 3 ngày, 4 ngày còn lại lo hầu việc Chúa. Trong thời gian đó quân phiệt Trương Tác Lâm ở Đông Bắc cũng mời ông làm giám đốc cơ xưởng hóa học chất nổ và hứa trả lương thật hậu hĩ, nhưng ông đã dứt khoát từ chối.
II. LẬP GIA ĐÌNH
Lúc còn thơ ấu thì Tống Thượng Tiết đã được cha mẹ đính hôn với một cô gái họ Dư. Theo tập tục của người Trung Hoa, lý ra họ đã thành lập gia đình với nhau khi vừa hết tuổi vị thành niên, nhưng vì việc học hành còn dang dở, hơn nữa ông còn ở nước ngoài xa xôi trăm ngàn nghìn dặm nên không thể và cũng không có dịp cưới xin, nay đã thành đạt về nước thì việc cưới hỏi là việc tất nhiên.
Mùa xuân năm 1928 Tiến sĩ Tống Thượng Tiết cùng cô dâu Dư Cẩm Huê đã đính ước trăm năm, và hôn lễ được cử hành trong nhà thờ Giám lý Hưng Hóa. Câu chuyện hôn lễ này không được ông nhắc đến trong quyển tự truyện của mình. Và cuộc sống lứa đôi của gia đình ông cũng không hề được nhắc đến. Người viết quyển sách này chỉ biết được một mẫu đối thoại giữa ông với bà Giáo sĩ giáo hội Giám lý Francis P. Jones và một thanh niên Trung Hoa tại gia đình của 2 vị giáo sĩ trên. Giáo sĩ Francis hỏi thanh niên Trung Hoa rằng: “Anh đã lập gia đình chưa?”. “Thưa chưa”. Thanh niên đáp. Tống tiên sinh tiếp lời thanh niên: “Tôi cũng ước mong là chưa lập gia đình.”
Lập gia đình có hơn 15, 16 năm nhưng thì giờ sống với gia đình thật là hiếm hoi. Theo như ông thường kể lại, một năm 12 tháng thì ông đã ra đi hơn 11, chỉ còn khoảng 1 tháng dành cho gia đình. Những thói hư tật xấu nho nhỏ của ông người ngoài ai cũng biết, có lẽ vì cô vợ trẻ họ Dư. Gia đình trẻ nào mà không có những lần cãi vã nhau, âu đó cũng là chuyện bình thường. Sau khi cưới nhau được mấy năm thì tiểu gia đình này dời về Thượng Hải. Một người kể lại một lần tình cờ đến thăm Tống Thượng Tiết đã nghe vợ nói rằng: “Anh ở nhà lúc nào cũng có thể nổi giận, thôi thì anh nên đi ra ngoài đi cho khỏe!”
III. BẮT TAY VÀO PHỤC VỤ CHÚA
Từ năm 1928, ngoài việc dạy học, Tống Thượng Tiết dồn tất cả thì giờ còn lại vào việc dạy Thánh Kinh và truyền giảng Phúc âm lộ thiên, vị tiểu Mục sư đã từng nổi danh cả một thời dĩ vãng, nay càng được nhiều người hâm mộ. Cùng lúc ấy, đoàn truyền giáo Bê-tên ở Thượng Hải cũng đến Tiên Du cách Hưng Hóa 80 dặm để tổ chức một Đại hội Phấn hưng. Chúa thăm viếng công việc làm của họ. Ngay lúc ấy, Tống Thượng Tiết cũng đang truyền giảng tại vùng Tiên Du, không hẹn mà gặp. Lửa Thánh Linh thăm viếng các tín hữu của các Hội Thánh ở nơi ấy. Lửa phấn hưng bừng bừng cháy lên. Đây là lần đầu mà ông tiếp xúc với đoàn truyền giáo Bê-tên. Đoàn trưởng đoàn truyền giáo này là Mục sư Kế Chí Văn, cùng trọ chung phòng với ông. Ông được mời chủ tạo các buổi thờ phượng của các vị Mục sư Truyền đạo trong hơn một tuần lễ. Một hôm sau khi chia sẻ Lời Chúa xong kêu gọi các vị tôi tớ Chúa lên cầu nguyện. Có hơn 100 vị nghe lời kêu gọi lên cầu nguyện và chính ông cũng cùng chung lên với những người ấy, hành động đó cho chúng ta hiểu rõ được tấm lòng khiêm nhường của ông.
Trong sự thờ phượng, Tống Thượng Tiết bài xích những người đã là con cái Chúa mà còn vái lạy trước hình ảnh những người đã quá cố. Ông bài bác việc thờ cúng đó trong phạm vi những tín hữu Cơ-đốc, vì họ đã được ánh sáng của chân lý Thánh Kinh soi rọi, đã ý thức được thờ thần tượng là tội mà vẫn cứ vấp phạm. Nhưng sự việc này lại đến tai đảng bộ Quốc Dân Đảng, họ cho rằng Tống Thượng Tiết là một phần tử phản động, nên ra lệnh truy tầm, nhưng Chúa đã khải thị cho biết trước một đêm nên ông đã rời khỏi Tiên Du mà trở về Hưng Hóa. Vì được chỉ thị của trung ương nên đảng bộ Hưng Hóa làm áp lực với nhà trường buộc phải cách chức giáo sư của Tống Thượng Tiết. Thật ra thì ban giám đốc của trường vốn đã đố kỵ và ganh ghét vì ông rất được lòng quý mến của học sinh, nay vừa được chỉ thị của đảng bộ nên họ lập tức chấp hành ngay. Họ bèn xúi giục một số học sinh trong trường chống đối thầy Tống, gây nên một bầu không khí chia rẽ. Một hôm các học sinh này họp nhau lại gây nên một tinh thần căm hờn giả tạo, kéo nhau đến phòng Tống Thượng Tiết gây sự, lấy cớ là thầy đã bôi nhọ danh dự họ giữa dân chúng vì đã tuyên bố rằng: “Các nam sinh thì chỉ thích hóa học, không giống các nữ sinh vừa thích hóa học vừa thích học Thánh Kinh”. Họ muốn ra tay hành hung ông. Nhưng bỗng đâu trời nổi cơn giông tố ầm vang rền và mưa đá lớn ào ào đổ xuống, những viên đá lớn rơi cả vào phòng học; đám học sinh hoảng hốt kêu la, chạy tán loạn, lo đi đóng các cửa sổ để tránh mưa đá. Tuy Chúa đã dùng sấm chớp mưa đá lớn để giải cứu Tống Thượng Tiết, nhưng ông cũng hiểu chắc Ngài đã dùng hoàn cảnh và người khác để thôi thúc ông chỉ chuyên tâm lo hầu việc Chúa. Ông đã quyết định theo con đường đầu phục trọn vẹn nên đã đệ đơn xin từ chức giáo học.
Trong lúc đó, một số bạn trẻ đã được Chúa thăm viếng trong ký đại hội phấn hưng vừa qua, nên ông đã tìm thêm được một số anh em đồng tâm đồng chí giúp đỡ và tổ chức được một đoàn truyền giáo nho nhỏ đến hoạt động tại làng Bình Hải. Ngày đầu tiên đoàn đến làng Bình Hải với ý định chỉ lên núi cùng nhau cầu nguyện mà thôi, nhưng khi về đến địa điểm chọn làm nơi truyền giảng thì đã thấy tín hữu cũng như thân hữu ngồi chật kín cả hội trường. Đoàn đã không bỏ qua dịp tốt, đã truyền giảng một bài, Chúa đã thăm viếng ngay đêm đó. Sau bài giảng, nhiều người khóc lóc ăn năn, xưng tội và cầu nguyện tin nhận Chúa. Mục sư quản nhiệm Hội Thánh địa phương họ Lưu, vợ bị bệnh tim nặng, hôm ấy bị ngất xỉu tại hội trường, tưởng như đã qua đời hẳn rồi, ông than phiền cùng Chúa: “Tại sao Chúa để con đi vào con đường đau thương quá thể thế này?”. Tống Thượng Tiết an ủi: “Bà không đến nỗi phải qua đời đâu”. Rồi đến bên giường cầu nguyện cho bà. Mọi người trong đoàn truyền giáo đều đến an ủi ông, còn ông thì đã nghĩ đến việc lo mai táng cho vợ. Ngày hôm sau, đoàn truyền giáo vẫn lấy đức tin ra ngoài tổ chức buổi truyền giảng lộ thiên. Trong nhật ký của Tống Thượng Tiết có ghi rằng: “Khoảng trống ngoài thiên nhiên là hội trường lý tưởng của chúng tôi và những tảng đá nhô lên cao là những tòa giảng thiên nhiên rất đẹp của chúng tôi”. Buổi truyền giảng lộ thiên hôm ấy thu hút số khán thính giả rất đông và Chúa cho kết quả rất đáng khích lệ. Trên đường về, Tống Thượng Tiết nói với mọi người trong đoàn truyền giáo rằng: “Chắc chắn không còn điều gì nguy hiểm cho bà Mục sư nữa”. Quả nhiên, về đến nhà thấy bà đã hồi tỉnh và đang nằm tịnh dưỡng trên giường. Do đó làng Bình Hải đã trở nên một nơi mang lại thắng lợi đầu tiên cho đoàn truyền giáo nhỏ này.
Sau đó đoàn đi đến hoạt động tại những nơi khác như Đại Cam Sư, Tĩnh Đức và Đông Lệ. Để kết thúc vòng truyền giáo này họ trở về Hưng Hóa. Về đến nhà, Tống Thượng Tiết tổ chức ngay một lớp Thánh Kinh ngắn hạn 8 ngày tại Thiên Mã Sơn. Có khoảng 50 thanh niên theo học. Mỗi ngày họ lên núi học Thánh Kinh và sau khi được huấn luyện họ trở về Hội Thánh địa phương của mình trong vùng Hưng Hóa và Tiên Du để phục vụ. Giáo hội Giám lý tại Phước Châu nghe và thấy những việc làm của Tống Thượng Tiết thì biết rằng Chúa đã cùng làm việc với ông. Vị chủ nhiệm đặc trách truyền giáo của giáo hội là Mục sư Frank T. Kariche có ý định đi quan sát những công việc của đoàn truyền giáo Tống Thượng Tiết, nên ông Kariche đã mất 2 ngày đường bộ và đường sông để đến được nơi đoàn truyền giáo đang hoạt động. Ông mục kích tận mắt lối sống của họ, chẳng những họ ăn uống đơn sơ kham khổ mà lối sống hiệp một, đồng tâm nhất trí hầu việc Chúa của họ thật đáng quý. Năm mươi người trẻ tuổi cộng sự ấy nhất tề tuân theo sự hướng dẫn và lãnh đạo của Tống Thượng Tiết. Như ngày xưa Ti-mô-thê và Si-la đã thuận phục Phao-lô vậy.
Khi trở về tại Phước Châu, Mục sư Kariche có ghi lại những ấn tượng về đoàn truyền giáo như sau: “Những chương trình truyền giảng của ông Tống Thượng Tiết là những công trình phối hợp chặt chẽ giữa những bản Thánh Ca và bài thuyết giảng giáo lý. Những bài hát của họ là những đoản ca do chính Tống Thượng Tiết soạn dùng để nhấn mạnh đến chủ đề và nội dung của những bài thuyết giảng. Những đề tài xoay quanh sự hiện hữu của Thượng Đế, tình yêu thương của Ngài, Giê-su là Chúa Cứu Thế, tội lỗi, sự ăn năn, niềm tin, cuộc sống của một Cơ-đốc nhân… Phong cách thuyết giảng của Tống Thượng Tiết rất giống với Billy Dunday, không bị gò bó trong phạm vi của bục giảng mà ông thường đi tới đi lui, có khi vượt qua khỏi cả bàn Tiệc Thánh, xuống đứng giữa hội trường nhìn trái nhìn phải, vừa đi vừa giảng rất tự nhiên, nhiều khi chỉ thẳng vào một thính giả như trực tiếp nói riêng với người ấy… Thường thì ông trở về bục giảng, trong tư thế rất trang nghiêm để kết thúc bài thuyết giảng của mình. Kết luận xong là kêu gọi thính giả tiếp nhận Chúa. Số người lên xưng nhận Giê-su là Chúa Cứu Thế, thường rất đông”.
CHƯƠNG 24
HẦU VIỆC CHÚA TẠI QUÊ HƯƠNG
(1928-1929)
Mùa hè năm 1928, Tống Thượng Tiết khao khát có thì giờ và cơ hội để dưỡng linh, vì ông nghĩ rằng một người truyền đạo của Đức Chúa Trời không thể nào thiếu sự nghỉ ngơi và bồi dưỡng tâm linh. Chúa đã mở đường cho ông và đưa ông đến trại hè Cô-lĩnh thuộc tỉnh Cửu Giang (Cô-lĩnh là một nơi nghỉ mát nổi tiếng của Trung Hoa). Mục đích Tống Thượng Tiết đến trại hè là để được nhận, nên ngoại trừ một lần được mời làm chứng về việc Chúa đã kêu gọi ông đi hầu việc Ngài, thì ông không nói thêm một điều gì khác. Dự trại hè xong, về lại Hưng Hóa, ông thấy Chúa Thánh Linh đã không ngừng thăm viếng công việc Chúa. Người em út của ông cũng được Chúa thăm viếng và rất nóng cháy nên đã tổ chức một đội ngũ hướng đạo sinh Cơ-đốc. Chúa hướng dẫn họ đến gần những hí trường của các làng mạc xa xôi hẻo lánh, tại đó tham dự những chiến trận thuộc linh đối kháng với ma quỉ. Chúa đã vùa giúp họ, nên khiến nhiều người đã rời các cuộc vui tại các kịch trường để đến nghe những ca khúc, những bản nhạc tôn vinh, ca ngợi Chúa của đoàn hướng đạo Cơ-đốc này. Họ đã dùng những nhạc khí Trung Hoa để hòa tấu với những lời làm chứng về Chúa tuy đơn sơ nhưng chân thành tận đáy lòng họ. Họ hát và hướng dẫn quần chúng hát những đoản ca do Tống Thượng Tiết soạn trong khóa học Thánh Kinh trên đỉnh núi Thiên Mã. Lời của những bài đoản ca này được trích ra từ Thánh Kinh. Chẳng bao lâu những bài hát này trở nên thịnh hành trong các làng mạc. Những em bé chăn trâu, những thôn nữ trong làng đều biết hát những bài ca tôn vinh Chúa trong khi làm việc.
Cuối thu năm ấy (1928) Tống Thượng Tiết cùng với một giáo sĩ tây phương và một anh em khác tổ chức một đoàn truyền giáo 3 người hoạt động chung quanh vùng. Tuy có ít người, mỗi nơi chỉ lưu lại vài ngày, nhưng được Chúa Thánh Linh thăm viếng đặc biệt. Đến nơi nào cũng được nồng hậu tiếp đón và nhất là Chúa cho những kết quả truyền giảng thật là tốt đẹp. Nhưng tiếc thay các Hội Thánh địa phương thiếu nhân lực nên không duy trì được ngọn lửa phấn hưng ấy lâu. Kinh nghiệm qua những chuyến truyền giáo này, ông đưa đến một đề nghị rất thiết thực: “Mong rằng các Thần học viện cũng như các trường Kinh Thánh trong nước không những chỉ đào tạo ra những sinh viên với mảnh bằng tốt nghiệp để đi đến các Giáo hội để tìm một công việc làm, mà phải đào tạo thành một người truyền đạo có tầm vóc thuộc linh để phục vụ Chúa”. Theo quan điểm của Tống Thượng Tiết thì các Thần học viện không nên trao văn bằng cho sinh viên tùy theo thành tích học vấn của họ, vì như thế có khác chi những trường học của thế gian? Mà chỉ trao văn bằng tốt nghiệp cho những sinh viên có sự sống thật của Chúa Cứu Thế. Tống Thượng Tiết tin chắc rằng tình trạng khủng hoảng thuộc linh của Hội Thánh Trung Quốc không phải vì thiếu những người đi học thần đạo ra làm truyền đạo, mà chỉ thiếu những người truyền đạo thật sự có sức sống thuộc linh để hầu việc Chúa. Người truyền đạo của Đức Chúa Trời bắt buộc phải được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Người truyền đạo của Đức Chúa Trời không đặt nặng vấn đề tri thức hiểu biết của thế gian mà điều quan trọng là có sức sống mới thuộc linh hay không. Người truyền đạo có sức sống thì kết quả của việc làm rất rõ ràng như vàng bạc châu báu so với cỏ khô, rơm rác. Những nhận định trên của Tống Thượng Tiết rút ra từ kinh nghiệm qua những chuyến truyền giảng tại các Hội Thánh địa phương. Chỉ có những Hội Thánh có tôi tớ Chúa thật sự có sự sống thuộc linh mới duy trì được ngọn lửa Thánh Linh sau khi một sứ giả phấn hưng được Chúa sai phái đến.
Tháng Giêng năm 1929 do lời mời của các Hội thanh niên nam tỉnh Phước Kiến, Tống Thượng Tiết đã đến vùng trung châu để chủ tọa những buổi bồi linh và truyền giảng. Số người đến tham dự mỗi ngày trung bình khoảng 7, 8 trăm. Sau đó ông cũng đến truyền giảng ở Hạ Môn, Tuyên Châu. Chúa có thăm viếng đặc biệt, làm nhiều phép lạ, số người tin nhận Chúa ngày càng gia tăng. Ông có cảm tưởng rằng Chúa đã cho phép rời khỏi Giê-ru-sa-lem (các làng mạc và địa phương Hưng Hóa) để đi đến Sa-ma-ri là tỉnh Phước Kiến và sau đó là chu du khắp thiên hạ. Đây là thời điểm “đi khắp thế gian giảng Tin Lành” nhưng sao Chúa vẫn gọi ông về Hưng Hóa để chờ đợi ý chỉ của Ngài. Về Hưng Hóa ông thành lập một trường Kinh Thánh có 5 thanh niên theo học. Một mặt họ cùng nhau đi truyền giảng ở những vùng lân cận, về “trường” thì học hỏi nghiên cứu thêm Lời Chúa. Giai đoạn đầu, trường sinh hoạt tại đảo Nhật Nam, nơi đây họ gặp được 3 chị em thật lòng kính yêu Chúa. Do tình yêu Chúa thúc giục, ba chị em này sau khi học xong trung học đã bỏ quê hương, xa lìa mọi cám dỗ của trần gian, khước từ tất cả những mời gọi của vật chất để đến một nơi như một hoang đảo xa xôi hẻo lánh sống hy sinh kham khổ.
Qua tinh thần phục vụ của họ cũng như những bông trái gặt hái được, Tống Thượng Tiết đã rút ra được 4 bài học lớn: Thứ nhất là niềm tin; thứ đến là hi sinh chính mình để làm việc cho Chúa Giê-su; thứ ba là thật sự có một tình yêu linh hồn đồng bào; và cuối cùng là có một sức chịu đựng mọi gian khổ cách bền bĩ. Họ là những người gieo giống và đã tạo nên một đồng lúa chín vàng tại hải đảo Nhật Nam để rồi Chúa dùng bàn tay của những người thuộc trường Kinh Thánh đến gặt, mang những bó lúa vào kho cho Chúa. Rất nhiều người và gia đình tại hải đảo xa xôi quê mùa này đã đập vỡ các thần tượng bằng đất và chỉ các tượng bằng gỗ thì làm củi đun bếp!
Địa điểm thứ hai họ đến hoạt động là Phượng Tích, nơi chôn nhau cắt rốn của Tống Thượng Tiết. Lối làm việc của đoàn truyền giáo và những sinh viên thần đạo là: Hễ thấy những đôi vợ chồng nông dân cày cấy dưới ruộng sâu, thì ông cũng như môn đệ của ông cũng xuống cấy cày với họ để được gần gũi và cá nhân chứng đạo cho họ trong khi làm việc. Như vậy, đêm đến các nông phu đó sẽ vui vẻ nhận lời đến nhà thờ để nghe truyền giảng.
Sau đó đoàn truyền giáo xuống làng Long Huê. Trong vài ngày đầu những người đến nghe có thể đếm được trên đầu ngón tay, nhưng sau đó Chúa cho những phép lạ diệu kỳ xảy ra. Có những người được thiên sứ đến trong giấc mơ chỉ trích những lỗi lầm và họ truyền miệng với nhau nên số người kéo đến nhà thờ ngày càng đông, đến đỗi hội trường không còn một chỗ chen chân.
Sau Long Huê, đoàn truyền giáo đến hoạt động tại làng Hà Đình, nơi đây việc truyền giảng gặp khó khăn lạ thường. Sau khi họ hiệp ý cầu nguyện tìm biết ý Chúa thì mới thấy rõ nguyên nhân là Hội Thánh nơi đây có một số trữ kim khá lớn, sau những chi tiêu của hội còn dư nhiều tiền thì Mục sư và ban quản trị đem chia cho các tín hữu giống như chia phần thịt cúng vậy. Những tín hữu lâu năm thấy không cần phải nương cậy nơi Chúa nữa, còn số tân tín hữu thì vào hội để được dự phần chia tiền. Lẽ dĩ nhiên sự phân chia khó được phân minh nên gây nhiều chia rẽ trong giáo hội. Sau những công việc làm của các sinh viên thần đạo, tấm lòng cứng cỏi của các tín hữu tại nơi đó như bị gươm thiêng của Thánh Linh xuyên thủng nên họ kêu lên những lời ăn năn hối cải rất bi ai thống thiết, và Chúa đã tha thứ đổ phước xuống trên họ.
Từ Hà Đình đoàn truyền giáo xuống Phong Đình, đoàn lưu lại đây khoảng 20 ngày rồi đến Huỳnh Thạch. Lúc ấy vào giữa mùa hè, tại địa phương này đang bị một trận dịch hạch rất lớn, số tín hữu cũ và mới đến nghe truyền giảng rất ít, nên các sinh viên trong đoàn phải ra đứng ngoài đường để mời khách bộ hành qua lại vào nghe truyền giảng Phúc âm. Những người được mời vào, thường là những người vừa mới đi mai táng người thân mới qua đời từ nghĩa trang về, khi họ nghe về Tin Lành, nhận thức được đời người thật phù du ngắn ngủi nên họ rất vui mừng tiếp nhận sự sống đời đời từ nơi Chúa Cứu Thế Giê-su
Những Hội Thánh địa phương vừa nêu trên, phần lớn không mấy chú trọng đến phần tăng trưởng tâm linh bề trong của Cơ-đốc nhân và sự phấn hưng của Hội Thánh mà chỉ chú trọng đến những công việc phụ thuộc như bài trừ nạn mù chữ, bình dân giáo dục, những công việc có tính cách xã hội và họ còn phải báo cáo thành tích kết quả về tổng hội trung ương. Nên khi thấy những việc làm có tính cách thuộc linh của những sinh viên thần học của Tống Thượng Tiết họ thường bày tỏ thái độ tiêu cực chống đối. Ông cũng như các anh em cảm thấy thật nản lòng, nhưng họ vẫn được Chúa thúc giục nên vẫn cứ tiếp tục tiến bước đến những nơi khác rao giảng danh Cứu Chúa Giê-su. Đoàn truyền giáo đến một nơi gọi là Mộ Bố là một vùng đất cát mênh mông, đất thì rộng nhưng dân cư thưa thớt, đi đến nơi nào cũng thấy còn lại những dấu vết của chiến tranh. Cũng vì dân làng trải qua nhiều cuộc chinh chiến tàn khốc, nên những vết thương đau đớn như vẫn chưa nguôi ngoai. Dân làng này tiếp nhận tình yêu của Chúa Cứu Thế Giê-su dễ dàng hơn những nơi khác. Làng Thuận Xương cũng ở trong tình trạng tương tự, nhà thờ thì bị quân đội chiếm đóng hơn nửa năm qua. Khi đoàn truyền giáo của Tống Thượng Tiết đến với dân làng thì cũng là lúc quân đội mới rút khỏi nhà thờ.
Từ Thuận Xương, đoàn truyền giáo băng qua Dương Khẩu đến một nơi gọi là Diên Bình và họ tổ chức một đại hội tại đây. Các nam nữ sinh viên thần học khắp nơi nghe tin, liền qui tụ về đề nghe những sứ điệp bồi linh và truyền giảng. Danh Chúa rất được vinh hiển qua kỳ đại hội này. Những lời ngợi khen Chúa phát ra tự đáy lòng những thanh niên thực tâm ăn năn hối cải. Nhưng Sa-tan cũng giận hoảng phá quấy rất hung hăng. Những điều kỳ diệu trong đại hội được đồn đẫy ra trong dân chúng rất nhanh, bộ chỉ huy Quốc Dân Đảng địa phương nghe được, liền cho người giả dạng thân hữu vào trong đại hội để nghe truyền giảng, trong khi diễn giả đang rao giảng Lời Chúa thì họ cố tình làm ồn ào gây huyên náo để phá hoại. Tống Thượng Tiết biết rất rõ dụng ý gian ác đó, nhưng ông vẫn một lòng nhờ cậy vào Chúa, vẫn một ngày hai lần lên tòa giảng lớn tiếng truyền rao Phúc âm cứu rỗi của Chúa Cứu Thế Giê-su.
Có một cô kia vốn là một sinh viên thần đạo, sau khi thật sự ăn năn tin nhận Chúa, cô dùng đủ mọi cách để mời cả gia đình đến nghe truyền giảng Phúc âm. Nhưng đa số người trong gia đình không mấy quan tâm đến sự cứu rỗi nên họ nghe giảng với thái độ mệt mỏi, vừa nghe vừa ngủ gà ngủ gật, người mẹ thì đôi mắt đã kém đôi tai lại nghềnh ngãng. Nhưng sau đó, thân sinh của cô cảm thấy rất thích thú khi được nghe giảng luận về sự cứu rỗi, và cả cha mẹ cô đã tiếp nhận Chúa. Cô này rất đỗi sung sướng và khoe với mọi người rằng: “Tống tiến sĩ đến truyền giảng nơi đây là vì thương xót gia đình chúng tôi”.
Tống Thượng Tiết định tổ chức đại hội truyền giảng này khoảng 10 ngày, nhưng thình lình ông ngã bệnh nặng. Các bác sĩ đều khuyên ông nên rút ngắn kỳ đại hội lại và về nhà tĩnh dưỡng. Nên sáng tinh mơ hôm đó, khi bình minh chưa ló dạng ông đã dùng một chiếu tàu nhỏ rời khỏi làng Diên Bình. Chỉ vài giờ sau đó bộ chỉ huy Quốc Dân Đảng phái người đến tầm nã Tống Thượng Tiết, dĩ nhiên họ không thể tìm thấy ông nơi ấy, họ chỉ có thể trương lên những biểu ngữ: “Đả đảo Tống Thượng Tiết” để tỏ thái độ phản đối ông mà thôi.
Sau khi bị tầm nã và đả kích ở Diên Bình, Tống Thượng Tiết nhận được một bài học lớn: Không thể đi trước ý định Đức Chúa Trời, ông ý thức một cách rõ ràng rằng nếu chỉ cậy sức mình để đi ra “làm việc Chúa” thì sẽ bị roi vọt của Ngài không sai. Ông cũng biết rằng, lần này là Chúa đuổi mình về Hưng Hóa, nên ông đã cúi đầu vâng phục trở về quê cũ để phục vụ Chúa và chờ đợi tiếng phán của Ngài.
Những ngày hoạt động tại Diên Bình, Tống Thượng Tiết thường lên ngọn núi, mệnh danh là “Núi Cầu Nguyện”. Ông được biết tại Diên Bình có một vị Mục sư họ Hứa mỗi ngày lên đồi này vì tình trạng hội chúng tại Diên Bình mà khóc lóc khẩn thiết kêu cầu cùng Chúa, Mục sư Hứa đã kiên trì cầu nguyện như thế trong suốt 30 năm. Giáo hội nhờ sự cầu thay đó mà được Chúa thăm viếng và được hưng thịnh. Trên núi cầu nguyện đó có một tảng đá thật lớn, bằng phẳng nhưng nằm trên cao và cheo leo không thể dùng để quỳ gối cầu nguyện được, nhưng về sau Diên Bình bị động đất và tảng đá ấy đã được đặt xuống một mặt bằng phẳng rất thích hợp cho việc hiệp chung cầu nguyện. Sau khi Mục sư Hứa qua đời, nhiều tín hữu lên núi cầu nguyện thì thấy thiên sứ đi lại trên tảng đó mà ca hát, ngâm thơ tôn vinh Chúa. Họ nghĩ rằng, lúc còn sinh thời Mục sư Hứa thường nhật lên núi này cầu nguyện nên họ đồng thanh đổi tên núi thành tên “Núi Cầu Nguyện”. Và cũng gọi tảng đá lớn bằng phẳng đó là “Tảng Đá Cầu Nguyện”.
Khi Tống Thượng Tiết lên “Núi Cầu Nguyện” thấy được “Tảng Đá Cầu Nguyện” thì hồi tưởng lại người tôi tớ trung thành của Chúa, ông tâm tình với các bạn cùng lên núi cầu nguyện rằng: “Người chăn chiên hiền lành, vì chiên mình phó sự sống mình. Mong rằng tất cả các tôi tớ của Chúa đều được tràn đầy tình yêu của chính Chúa để nuôi nấng chiên của mình”.
CHƯƠNG 25
SỰ RÀNG BUỘC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (1930)
Tống Thượng Tiết quan niệm rằng, một người truyền đạo của Đức Chúa Trời phải được huấn luyện tương đối kỹ về giáo lý căn bản Thánh Kinh. Nên ông đã phân chia 100 Hội Thánh ra thành 10 khu huấn luyện, và ông đích đến từng khu một để mở lớp huấn luyện Thánh Kinh. Ngoài ra ông còn khuyến khích đẩy mạnh chương trình thờ phượng gia đình lễ bái. Trong năm 1930 ông đã tổ chức lại việc thờ phượng cho hơn 1000 gia đình. Kết quả những lớp huấn luyện do ông chủ trương đã đào tạo được rất nhiều những lãnh tụ của các giáo hội địa phương, mỗi khu tung bình có chừng 40 hay 50 vị. Vì các tôi tớ Chúa của Giáo hội Giám lý thường được điều động hay thuyên chuyển đi nhiều nơi khác để hầu việc Chúa, nên ông cũng tổ chức những lớp huấn luyện cho các tín hữu thanh niên để họ cũng có thể phụ giúp các vị truyền đạo hay Mục sư tại các Hội Thánh địa phương. Cuộc sống đạo đức Cơ-đốc nhân của họ cũng là bằng chứng sống động cho Chúa. Đức Thánh Linh thăm viếng đặc biệt 2 chương trình huấn luyện này. Các Hội Thánh khác thấy Chúa ban phước như vậy nên cũng dạt thư đến mời Tống Thượng Tiết đến giúp đỡ họ tổ chức những lớp huấn luyện. Cho nên ông đã có dịp đi thăm nhiều nơi ở Mãn Châu, Phước Thanh, Vĩnh Xuân, Đức Hóa và Hải Sơn… để mở các khóa huấn luyện này.
Tống Thượng Tiết đã nhận xét là huấn luyện cho các tín hữu có phần dễ dàng hơn huấn luyện cho các vị Mục sư, Truyền đạo.. Lý do chính là các vị ấy chưa có sự sống, chưa thấy được chân lý và tấm lòng chưa được khai minh. Muốn họ ăn năn hối cãi như là chuyện đội đá vá trời. Ông ý thức rõ ràng, những nhà truyền đạo mà chưa có sự sống của Chúa thì chẳng những không cứu vớt được ai mà ngược lại còn là những tảng đá vấp chân cho nhiều người khác. Nhưng đồng thời ông cũng rất cảm thông với họ vì thường thường những người đi hầu việc Chúa gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, thù lao của họ thật là ít ỏi, nên phần lớn phải kiếm thêm một nghề tay trái để có thể đủ sống. Một người đã dâng mình hầu việc Chúa mà còn phải vương vấn với các công việc của trần gian chỉ còn rất ít thì giờ tương giao với Chúa, cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa làm sao có thể sinh bông trái tốt đẹp cho công việc Chúa. Thù lao của họ đã thấp, lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự đóng góp tài chánh của các tín hữu, cho nên thường xảy ra các tệ nạn, thứ nhất là tín hữu sẽ nhìn các tôi tớ Chúa như những chủ nợ, họ sẽ có thái độ vừa chán ghét vừa lo âu, coi như một gánh nặng cho họ. Về phía các tôi tớ Chúa thì xem tín hữu như những người thi ơn, nên có những vị đã có những hành vi tiêu cực, nịnh bợ, khiến cho một số tín hữu tự cảm thấy mình như kẻ bề trên phải được kính nể. Thậm chí có những người phạm tội, các Mục sư cũng làm lơ không dám bẻ trách sửa trị. Thêm một điều khá quan trọng nữa là nền tài chánh của Giáo hội đều ở trong tay những giáo sĩ tây phương cho nên trên thực tế, các ông ấy trở nên những chủ nhân mướn các Mục sư, Truyền đạo làm việc theo ý của họ. Nếu không tuân hành mệnh lệnh của họ thì họ sẽ hoán chuyển đến một công việc khác. Những giáo sĩ tây phương lúc bấy giờ đều thuộc phái tân thần học. Những tôi tớ Chúa (người bản xứ) phục vụ dưới hệ thống đó thì phải thi hành những mệnh lệnh từ cấp trên phán xuống không cần biết đúng hay sai. Nên Tống Thượng Tiết cũng phải trải qua nhiều khó khăn.
Tính đến kỳ lễ kỷ niệm Chúa chịu thương khó năm 1930, Tống Thượng Tiết về nước đã trên 2 năm rưỡi, ông đã tự xem mình như những người bình thường khác, nên đã quên đi tất cả những gì mình có, chỉ một lòng tin vào Chúa Giê-su. Những mũi tên độc bắt đầu bắn vào tư tưởng của ông: Một tiến sĩ hóa học, một giáo sư đại học, đương nhiên lương hàng tháng tối thiểu cũng phải được 5, 6 trăm. Nhưng trên thực tế, ông đã làm những công việc thật vất vả, vai mang nặng hành lý, vượt đèo băng suối, đầu đội trời không mũ nón, chân không giày dép. Mồ hôi tuôn đổ qua những chặng đường gian nan vì Tin Lành, công lao ấy tiền công nào bù đắp lại? Hay chỉ những dèm chê của bạn hữu và thân quyến? Thời gian thấm thoát trôi qua, ông bà Tống Thượng Tiết đã có 2 con, nhu cầu gia đình ngày càng nhiều, mà tìm kiếm được do công lao vất vả của ông làm ra không đủ để nuôi gia đình, Tống Thượng Tiết thầm nghĩ như thế này chẳng hóa ra Chúa đã bạc đãi mình sao? Trong tâm trạng hoài nghi chán nản đó, thì Lời của Chúa đến với ông như vừa răn trách vừa an ủi: “Con không thể vâng phục Ta cho đến cuối cùng sao? Việc của con Ta đều biết cả, và những thất bại của con ngày hôm nay giúp những thành công cho mai sau. Vả lại con cũng nên thấu hiểu chân lý này: “Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời là cho những kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định”. Nghe được tiếng của Chúa, ông chỉ biết lặng thinh suy gẫm và không dám có một lời nào. Chẳng bao lâu sau, Tống Thượng Tiết nhận được thư mời đến chủ tọa đại hội tại Nam Xương và Nam Kinh. Ông nghĩ rằng đây là thì thuận tiện, thời vụ đã chín mùi. Chúa đã mở đường đề đi truyền giáo phương xa, nhưng khi trình hỏi ý Chúa thì kết quả ngược lại, Chúa bảo phải đợi chờ thêm một thời gian nữa, rồi hãy ra đi, vì giờ của Ta chưa đến. Tống Thượng Tiết vì quá nóng lòng ra đi truyền giảng nên không thể nán lại lâu hơn nữa. Như con ngựa bất kham, tràn đầy sinh lực và chỉ muốn bươn chạy đến trước, ông chuẩn bị hành trang để đi đến tỉnh Giang Tây. Bỗng nhiên toàn thể châu thân ông mọc lên những chiếc mụn nhọt, trông rất kinh tởm, nhưng ông vẫn không tin đây là sự ràng buộc ngăn trở của Chúa. Nghĩ rằng, lộ trình đến tỉnh Giang Tây cũng mất khoảng 3, 4 ngày, trong thời gian đó chắc các mụn nhọt này cũng sẽ lành lặn. Ông không một chút băn khoăn về sự ngăn trở này, chỉ toan tính cho cuộc hành trình sắp đến. Sáng sớm ngày khởi hành, bất thần Tống Thượng Tiết lâm bệnh rất nặng, thượng thổ hạ tả. Bụng đau quặn thắt không thể nào chịu nổi. Đau đớn và kiệt sức rất nhanh, ông yếu mỏn tưởng chừng như không qua khỏi, Tống Thượng Tiết liền đến với Chúa và xưng tội không vâng phục cùng Ngài và khẩn cầu nguyện: “Lạy Cha, xin ý Cha được nên, nếu Cha muốn suốt đời con làm việc giữa chốn nông thôn thì con cũng xin vâng phục Cha”. Lời cầu nguyện vừa dứt thì cơn đau đớn quặn thắt cũng hết ngay. Sau khi khỏi bệnh, Tống Thượng Tiết được mời đến Bằng Hải để hướng dẫn một đại hội phục hưng của thanh niên, sinh viên tổ chức. Trong kỳ đại hội này có nhiều người đã được tái sanh. Sau đó ông lại được mời đi chủ tọa trại hè của các lãnh tụ các giáo phái tại khu đảo kế cận đó. Kết quả của trại hè bồi linh này là có thêm nhiều nữ truyền đạo và nữ giáo viên tình nguyện đi đến nhiều nơi để truyền giảng Phúc âm.
CHƯƠNG 26
LÊN MIÊN BẮC (1930)
Tốn Thượng Tiết đã hoàn toàn đầu phục Chúa Cứu Thế Giê-su và bằng lòng suốt đời hầu việc Ngài tại quê hương. Nhưng ý chỉ của Chúa không phải là muốn ông chỉ truyền giảng cho gia đình và quanh quẩn nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng muốn rèn luyện ông biết đầu phục Chúa trọn vẹn.
Trước khi Tống Thượng Tiết từ ngoại quốc trở về thì Hưng Hóa là một vùng nhiều thổ phỉ. Cướp của, đốt nhà, giết người là chuyện cơm bữa. Nhưng chỉ 3 năm sau khi ông về nước thì nơi đây trở nên một vùng yên tĩnh, dân chúng an cư lập nghiệp, rất thuận tiện cho ông đi đây đó để giảng Tin Lành. Bỗng nhiên, các nhóm thổ phỉ lại nổi dậy cướp phá dân lành. Đi đến đâu cũng nghe bàn tán xôn xao việc cướp của giết người. Khi nghe tin không lành này thì các giáo sĩ của Giáo hội Giám lý đã nhanh chân rời khỏi vùng bất an này. Nhưng công cuộc truyền giáo tuần hoàn của Tống Thượng Tiết không thể nào ngưng hoạt động. Trong 3 năm hoạt động trong các làng mạc này thì cũng chỉ có những người đồng đức tin, đồng tâm đồng chí trong Hội Thánh hợp tác với ông. Họ thật sự có tâm tình hiệp một, yêu thương nhau như ruột thịt. Không hiểu vì duyên cớ nào, tự nhiên không hẹn nhau mà họ đã di tản đi nơi khác khiến cho ngay cả những người thân thiết với ông cũng đâm ra nghi ngờ. Có nhiều lời đàm tiếu to nhỏ về ông, khiến cho ông mất hết uy tín không còn đất đứng tại quê hương nữa.
Chúa đã khép cánh cửa truyền giáo ở quê hương của Tống Thượng Tiết, nhưng đồng thời Ngài
lại mở cửa truyền giáo nơi khác rộng rãi hơn cho ông. Viên Giám đốc của giáo phái Giám lý thấy tình trạng hỗn loạn của các làng mạc trong lúc phổ thỉ nổi lên cướp phá thì khó có thể tổ chức truyền bá Phúc âm, họ lại thấy Tống Thượng Tiết cũng đang trong thời rãnh rỗi, nên sai phái ông lên miền Bắc để nghiên cứu chương trình hoạt động chống nạn mù chữ. Ông ra đi với nhiệm vụ này, tuy trong thâm tâm không lấy gì làm thích thú. Nhưng lúc nào cũng tin tưởng rằng mục đích Chúa kêu gọi ông hầu việc Ngài không phải chỉ là làm những việc bên lề, nhưng để làm một cuộc phấn hưng cho Hội Thánh của Chúa. Lần này Chúa sai để về miền Bắc thì ông cũng không lấy lí do gì không thuận phục ý Ngài. Tống Thượng Tiết vừa qua cơn bạo bệnh, thì người nhà lần lượt kẻ trước người sau lây bệnh nguy khốn đó. Người bị bệnh nặng là vợ ông và cậu bé Tống Thiên Trình, cũng còn có có tên là Xuất Ai-cập, con mới sinh chưa được 3 tháng, đã được Chúa rước về nước Ngài. Ông và bà còn đang buồn về nổi phân li, thì lai càng buồn thêm Chúa đã dùng câu chuyện của Môi-se, sau khi sanh ra cũng được 3 tháng cha mẹ phải đem giấu vào bụi lau sậy bên ven sông, để an ủi 2 ông bà. Sau đó Chúa phán với Tống Thượng Tiết: “Hỡi con bé mọn của Ta, hãy tỉnh dậy, ngày đã đầy trọn, giờ đã điểm đây là lúc con phải rời khõi quê hương để đến nơi mà Ta sẽ hướng dẫn con đi”. Nghe tiếng Chúa truyền ông xin hoàn toàn vâng phục lời Chúa, vác thập tự giá mình bước lên con đường đến Gô-gô-tha.
Ba ngày sau khi chôn cất đứa con trai thân yêu, Tống Thượng Tiết giả từ gia đình, chỉ mang theo một gói hành trang thật nhẹ, lên tàu đến Thượng Hải
Rời Hưng Hóa, Tống Thượng Tiết không còn quay lại công việc mà 3 năm qua tiên sinh đã thực hiện tại cố hương. Sau này trong hồi ký, Tống Thượng Tiết đã viết: “Từ khi trở lại quê hương, trong 3 năm đầu, “tôi đã chạy bá vơ và đánh gió”. Nào là Cơ đốc giáo dục, nào là xóa nạn mù chữ, gia đình hướng về Chúa, đoàn thể thanh niên cải cách nông thôn, phục vụ xã hội. Tôi đã tập trung tinh thần để nghiên cứu những phương pháp tổ chức và phổ biến đến nhiều nơi để thực hiện. Những công tác có đơm hoa thật tươi đẹp, nhưng không kết trái! Và sự thiếu sót trầm trọng nhất là quên đi lẽ đạo cứu chuộc, thế nên tôi ra công gắng sức, làm việc không công, đưa nhiều người vào nhà thờ, nhưng chưa hề dẫn dắt được ai vào nước Chúa.
CHƯƠNG 27
ĐẾN HOA BẮC (1930-1931)
Tống Thượng Tiết không lưu lại Thượng Hải, nhưng đi thẳng đến Hồ Châu, lúc ấy Hồ Châu đang tiến hành phong trào “Gia đình Cơ-đốc hóa” – phía Đông Trung Hoa. Những cán sự phong trào này là những nhà lãnh đạo nổi tiếng thuộc Cơ-đốc giáo Hiệp Tiên Hội của Trung Hoa, hợp tác với những người được sai phái đến từ các tỉnh, có hơn 100 người, Tống Thượng Tiết là một trong những người được phái đến để cộng tác khai triển phong trào này. Vì ông ăn mặc quá đon sơ, thường thì tiên sinh chỉ mang một chiếc áo dài vải thô, thỉnh thoảng cũng có mặc âu phục, nhưng đã quá cũ và sờn rách, trong khi những người khác thì quần dạ áo bông, nên họ nhìn ông với đôi mắt xem thường, tưởng đó là một kẻ quê mùa đến từ một chốn thâm sơn cùng cốc nào đó. Những ngày đầu của đại hội, xem như ngôn ngữ bất đồng (Đại hội của các đại biểu nói tiếng Anh) nên Tống Thượng Tiết im hơi lặng tiếng, chỉ theo chương trình mà đến dự thính như một người ngoài cuộc. Ông chỉ lắng nghe các đại biểu thảo luận dự án này, bàn cãi kế hoạch nọ. Cho đến một hôm được Thánh Linh thôi thúc ông mới đứng dậy và cầu nguyện, lời cầu nguyện của ông đầy quyền năng. Sau giờ cầu nguyện, một người đàn bà ngoại quốc đã đến làm quen với ông nở một nụ cười thật cởi mở. Bà tự giới thiệu tên là Frank R. Milican Giáo sĩ Quản Học Hội, thuộc giáo hội Trưởng lão Hoa Kỳ. Bà thật đã không ngờ một người có dáng vẻ quê mùa như thế này mà lại nói được tiếng Anh quá lưu loát. Những dại diện khác cũng lấy làm thích thú khi thấy một nông dân làm lũ thế kia mà cũng chuyện trò bằng tiếng Anh cách thoải mái. Họ nhìn Tống Thượng Tiết với ánh mắt khác lạ. Bà Milican giới thiệu ông với đại diện của giáo hội Trưởng lão toàn quốc. Từ đó, những công việc và hoạt động của Tống Thượng Tiết được bà Milican tiếp tay rất nhiều. Qua cuộc đàm đạo, bà được biết ông có cấp bằng tiến sĩ khoa học, tốt nghiệp tại Hoa Kỳ nhưng được Chúa đặc biệt kêu gọi đi làm sứ giả truyền bá Phúc âm. Nên bà Milican đã mời Tống Thượng Tiết gia nhập vào nhóm của bà. Trong sinh hoạt của nhóm, bà đã mời ông chia sẻ lời Chúa và trình bày phương pháp và cho biết những kết quả trong vòng 3 năm qua ông đã thực hiện tại Hưng Hóa trong chương trình Cơ-đốc giáo dục gia đình. Sau này trong những sinh hoạt khác của nhóm, bà Milican cũng mời Tống Thượng Tiết đi thuyết trình tương tự mỗi nơi.
Trong một kì đại hội của giáo hội Trưởng lão, vị chủ tọa vì công tác bất thường nên vắng mặt, bà Milican đã giới thiệu Tống Thượng Tiết với chủ tịch của giáo hội mời ông làm diễn giả cho đại hội. Cánh cửa truyền giáo tại Hồ Châu như đã mở rộng cho ông. Các giáo phái khác nhau, các trường học, các bệnh viện thay nhau mời ông đến truyền giảng Phúc âm. Hồ Châu là nơi đầu tiên mà Tống Thượng Tiết truyền bá Phúc âm ngoài quê của ông.
Sau khi đại hội bế mạc, Tống Thượng Tiết rời Hồ Châu đến Hàng Châu tổ chức một đêm truyền giảng trong một ngôi giáo đường nho nhỏ, rồi vội vã rời Hàng Châu, nhận lời mời của ông bà Milican, lưu lại gia đình của ông bà một thời gian ngắn. Ông bà Milican giới thiệu ông với Hội Quản Học để mời ông thuyết trình về những kinh nghiệm truyền giáo tại các làng mạc, những phương châm thờ phượng trong gia đình và những thực hiện cho chương trình xóa nạn mù chữ.
Nhưng Tống Thượng Tiết vốn là nhân sự của giáo phái Giám lý phái lên miền Bắc nghiên cứu chương trình xóa nạn mù chữ nên không thể lưu lại Thượng Hải lâu ngày và phải giã từ ông bà Milican để trở lại Nam Kinh. Về đến Nam Kinh, ông đến thăm Thần học viện Kim Lăng. Thần học viện này, ngày xưa ông đã nghĩ đến, nhưng chưa có dịp vào học. Tại đây ông gặp lại Chương Văn Tân, người hiệu trưởng cũ tại trường Hưng Hóa, hiện nay ông ấy là giáo sư thần học và cũng kiêm nhiệm chức vụ giáo sư đại học Kim Lăng. Ông bà hiệu trưởng ân cần mời ông lưu lại trường 2 ngày để quan sát những phương án và phương pháp dạy của nhà trường. Sau 2 ngày thăm viếng ông vượt Trường Giang để đến Phổ Khẩu và đáp xe lửa về hướng Bắc đến Thiên Tân.
Lúc ấy đang độ cuối đông nên gió từ miền Tây-bá-lợi-Á mang khí lạnh buốt xương tràn về. Tống Thượng Tiết vốn sinh trưởng tại miền Nam, quần áo chuẩn bị cho mùa đông, nhất là mùa đông miền Cực Bắc lại không mang theo, thật ra thì không có để mang theo, nên ông thật khó có thể chịu đựng được cái rét buốt thấu xương này, cho nên khi đến Sương Lê, một vùng phụ cận của Thiên Tân, lưu lại trong gia đình Mục sư H.E. Duley. Tống Thượng Tiết được tiếp đãi rất nồng hậu, vì giáo sĩ Duley vốn là Mục sư của Giáo hội Giám lý và cũng là bạn đồng song với ông tại đại học Ohio Wesleyan. Hơn nữa Mục sư Duley cũng đã từng nghe những vinh dự của ông đã nhận được khi còn theo học tại Hoa Kỳ, một nhân vật mà Mục sư Duley đã ngưỡng mộ từ lâu, nay tình cờ được gặp, đôi bên cũng chưa cần những lời giới thiệu mà như đã là bạn cố tri..
Mục sư Duley khuyên Tống Thượng Tiết chẳng cần phải đi quan sát, nghiên cứu phong trào chống nạn mù chữ nữa, vì đây chỉ là một phong trào có tính cách xã hội, “thuộc thể” mà không động chi đến phần tâm linh. Phong trào này chưa phải là việc cấp bách hàng đầu của giáo hội. Hiện nay giáo hội đang tô phết cho mình một bộ mặt bên ngoài thật tốt đẹp, nhưng đời sống bên trong đang khô cằn, yếu mỏn. Điều chúng ta đang cần là một cuộc phấn hưng toàn diện đầy năng quyền của Chúa Thánh Linh. Chúng ta phải mạnh dạn đứng lên, hô hào một sự thức tỉnh cho tất cả những lãnh tụ của giáo hội, để họ ra khỏi trạng thái mê ngủ để sẵn sàng chờ đợi Người của Đức Chúa Trời tái lâm.
Cái gọi là phong trào cải lương, cải tiến nông thôn, phong trào xóa nạn mù chữ, thật ra chẳng có một kết quả nào đáng khích lệ. Mục sư Duley cùng với Tống Thượng Tiết đến Sơn Hải Quan để quan sát tại chỗ, họ thấy tín đồ vùng ấy chẳng những đã rất ít mà lại đời sống tâm linh cũng như về học vấn cũng chẳng biết gì. Ông nói với Mục sư Duley: “Tôi chỉ cần xem quả để biết cây”. Sau đó ông được giới thiệu Bắc Bình cũng gọi là Bắc Kinh gặp giáo sĩ R.W. Backus, ông này đang lo huấn luyện cho trên 20 sinh viên để ra truyền giáo, nhân dịp này, Mục sư Duley mời Tống Thượng Tiết chia sẻ những kinh nghiệm của ông trong 3 năm hầu việc Chúa tại Phước Kiến. Lưu lại đó vài ngày, giáo sĩ Backus giới thiệu ông đến vùng Bảo Định, đúng vào lúc thời điểm màu rét đang lên cao điểm, tuyết phủ kín một vùng rộng lớn. Tống Thượng Tiết đến Bảo Định vào nửa đêm, ông đến gõ cửa nhà một vị giáo sĩ Tây phương để xin qua đêm. Vị giáo sĩ này không thể ngờ được người đến xin ngủ đậu nhà mình là bạn học cùng trường ngày xưa. Thấy Tống Thượng Tiết trong bộ quần áo tồi tàn rách rưới thì ông cho ngủ chung giường với người lao công quét dọn nhà thờ. Khốn nỗi người bạn cùng giường này lại có một đôi chân quá hôi thối, trời thì quá rét, mềm thì mỏng, suốt đêm ông không sao chợp mắt được.
Sáng hôm sau vị giáo sĩ Tây phương này lần mò hỏi tung tích của Tống Thượng Tiết, bây giờ ông mới cho biết: “Tôi là Tống Thượng Tiết”. Vị giáo sĩ này rất đỗi ngạc nhiên:”Tống tiến sĩ đây sao?”. Giáo sĩ vội vã thay đổi thái độ và tiếp đãi ông như một thượng khách. Ông ta mời Tống Thượng Tiết thuyết giảng cho các học sinh trong vùng này. Dự tính sẽ có chừng khoảng 5, 6 trăm học sinh, không ngờ số người đến dự chỉ vào khoảng 5, 6 mươi người. Tìm hiểu mới biết rằng trong cuộc nội loạn năm Canh Tuất tức là loạn “Uprising of the Boxes”, những tín hữu ở Bảo Định đã tuận đạo với con số rất lớn. Tống Thượng Tiết đã đến nghĩa trang thăm viếng những ngôi mộ của những người đã khuất.
Từ Bảo Định, Tống Thượng Tiết xuôi về Định Huyện, dọc đường bão tuyết theo gió Bắc thổi về, rét buốt, mà ông lại quần áo phong phanh. Sau này kể lại là, thiếu chút nữa thì ông đã bị đông đá trong toa xe lửa. Đến được Định Huyện cũng lại nửa đêm, làm cho càng thấy nổi nhọc nhằn vất vả của cuộc hành trình. Tại Định Huyện, Tống Thượng Tiết được tiếp xúc với Tiến sĩ Án Dương Sơ, một giáo sư nổi tiếng cả thế giới về bình dân giáo dục. Án Dương Sơ, quả là danh bất hư truyền, phương pháp giáo dục của tiến sĩ Án rất mới mẻ. “Nhưng điều khiến tôi kính phục Án tiến sĩ là tinh thần cần mẫn của ông”, Tống Thượng Tiết nói, “nên thành quả tốt đẹp là chuyện dĩ nhiên, trong thâm tâm, tôi vô cùng kính phục Án tiến sĩ”. Đêm hôm ấy, trong giấc ngủ Chúa dạy dỗ tôi: “Những bông hoa tươi thắm kia chỉ là vinh quang tạm bợ, chúng không thể có kết quả được, những bông hoa ấy nở ra, rực rỡ trong nháy mắt, rồi tàn héo ngay! Con phải cẩn thận giữ mình và phải học bài học về cây vả sum suê lá mà không có một trái nào”. Thức dậy sau khải thị của Chúa qua giấc mơ, sáng sớm ông mới nhận được đâu là “chân” đâu là “giả”. Ông vội vã giã từ Án tiến sĩ để ra đi và được tiến sĩ đãi ngộ rất nồng hậu. Đáng lý ông phải lưu lại Định Huyện 1 hay 2 tháng để cùng chung lo việc Chúa với Án Dương Sơ, nhưng mới chỉ 1, 2 ngày ông đã phải vội vã giã từ để lên Bắc Kinh theo chỉ thị của Chúa.
CHƯƠNG 28
TỪ THƯỢNG HẢI ĐẾN NAM XƯƠNG
Mùa xuân năm 1931, Tống Thượng Tiết đến Bắc Kinh thì được một giáo sĩ của Giáo hội Trưởng lão mời hợp tác trong thời gian 6 tháng để chuyên phụ trách về huấn luyện những truyền đạo, nhưng Chúa đã ngăn cản và trực tiếp phán với ông: “Việc này không phải là trách nhiệm của con, con phải nhân Danh Ta để làm những việc vĩ đại hơn, con hãy chỗi dậy, hãy mang lửa phấn hưng đến cho những Hội Thánh không nóng cũng không lạnh trên toàn đất nước Trung Hoa, kẻo e khi Chúa Cứu Thế Giê-su tái lâm họ phải bị bỏ lại chăng, con phải mau mau đi rao truyền tin tức Chúa sẽ nhanh chóng trở lại, báo cho họ biết là phải tỉnh thức và sẵn sàng như cô dâu chuẩn bị đón tiếp tân lang”.
Tống Thượng Tiết đã vâng theo lời Chúa và tế nhị khéo léo nhưng dứt khoát từ chối đề nghị của vị Hội trưởng Giáo hội Trưởng lão. Sau đó thì nhận được thư của bà giáo sĩ Milican mời xuống chủ tọa một hội đồng phấn hưng tại trường nam nữ trung học Thanh Tâm tại cửa Nam tỉnh Thượng Hải. Cầu hỏi ý Chúa và thấy rằng đúng là Chúa muốn ông xuống đó để hầu việc Ngài, ông liền đáp xe lửa đến Thượng Hải. Cùng lúc đó, có nhà tôn giáo học người Nhật, tiến sĩ Hạ Xuyên Phong Tú cũng đang diễn thuyết tại đại học Phụ Giá. Những giáo phẩm đến tham dự trên 5, 6 chục người. Tống Thượng Tiết cũng đến tham dự. Có thể những lãnh tụ tôn giáo này cũng đã từng nghe tiếng ông, nay được gặp ai nấy cũng đều nhận rõ tinh thần hy sinh cũng như nền tảng tri thức của ông thật uyên bác. Họ cùng phong cho ông tước hiệu “Hạ Xuyên Phong Tú” của Trung Hoa. Họ mời ông giảng cho một buổi thờ phượng cầu nguyện. Đề tài chia sẻ của ông hôm ấy là: “Năng quyền của huyết Chúa Giê-su, hiệu lực của thập tự giá và sự cần thiết đầy dẫy Đức Thánh Linh trong sự tái sanh”. Sau khi chia sẻ lời Chúa xong, Tống Thượng Tiết biết ngay những người Tân phái sẽ không chấp nhận lời giảng của ông. Chính ông cũng nhận biết mình còn là con người của thời còn lưu học trên đất Mỹ, (hồi bấy giờ ông cũng thuộc những người Tân phái, giảng Phúc âm thì lấp lửng nửa vời), nên đã xin rút khỏi Hội và không hướng dẫn những buổi cầu nguyện thờ phượng kế tiếp nữa. Ông không đồng ý với Tin Lành Xã Hội của ông Hạ Xuyên Phong Tú. Và cũng bất mãn với chính mình về bài giảng về sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Về sau người ta đọc được trong nhật ký của ông: “…Không những người nghe không một chút xúc động, mà chính người giảng cũng không biết mình nói gì, tuy rằng lúc ấy tôi đã hiểu thế nào là Tin Lành Xã Hội, chỉ là một mớ lý thuyết trống rỗng, không có sức sống, nửa nạt nửa mỡ! Chính tôi đã từng là một nhà Tin Lành Xã Hội, tôi không thấu triệt những lẽ đạo căn bản, lẽ đạo cứu chuộc con người. Trong buổi chủ tọa tại Thánh Tâm học đường, tôi đã giảng giải Thánh Kinh cho học sinh trung học nam nữ và tôi cũng chia sẻ những kinh nghiệm của chính mình khi được Chúa cứu và thăm viếng. Nhiều người được sự cảm động”.
Sau đó Mục sư Than Nhân Khang của Thanh Tâm Đường giới thiệu Tống Thượng Tiết đến giảng cho một Hội Thánh thuộc giáo phái C.M.A ở Thủ Châu Đường. Nhưng không thấy thỏa lòng vì nhận thấy lời giảng dạy của mình đã lọt vào tai này và ra khỏi tai kia của những người đang ngồi nghe!
Trong lúc đang hầu việc Chúa tại Thượng Hải, có một người bạn Tây phương đã thành khẩn khuyến cáo: “Giáo hội Bê-tên ở phía Tây Thượng Hải là một nơi chủ trương đề cao cảm xúc và tình cảm, ông không nên đặt chân đến đó nữa”. Ông trả lời rằng: “Tôi có gia nhập vào giáo hội đó hay không là một chuyện, nhưng đến đó để thăm họ một lần là chuyện khác”. Một ngày kia Tống Thượng Tiết đã đến thăm Hội Thánh Bê-tên phía Tây Thượng Hải. Mục sư cũng như các chức viên đã mời ông giảng luận cho Hội Thánh. Ông đã dùng đề tài: “Năm cái bánh và hai con cá”. Số người dự thính hôm đó có tới 7, 8 trăm người. Ai nấy đều thấy vui thỏa về món ăn tâm linh mà Tống Thượng Tiết đã ban cho họ, nên sau đó họ đồng tâm mời ông hướng dẫn họ học Kinh Thánh, ông đã dùng sách Mác để dạy họ, số học viên ngày càng thêm đông. Ông tự nhủ rằng: “Những sự huyền nhiệm là những điều đáng tôn trọng, nhưng chắc một điều là phải có năng quyền thì mới đạt được sự cứu chuộc. Tôi tự xét lòng mình thì thấy thật bình an, và không một chút hổ thẹn”. Ông đã khước từ lời mời gia nhập giáo hội nà, tiên sinh chỉ hứa với họ sang năm 1931 sẽ đến chủ trì trại hè của Hội Thánh. Tuy không gia nhập giáo hội Bê-tên, nhưng ông vẫn thường xuyên cầu nguyện cho họ, xin Chúa nếu được cho phép ông cộng tác với họ trong công tác truyền bá Tin Lành ở miền Bắc.
Lên miền Bắc lần này trên danh nghĩa của giáo hội Giám lý để nghiên cứu quan sát tình hình của phong trào bài trừ nạn mù chữ, nên lúc về cũng phải báo cáo những công việc này, nên ông tính toán là sẽ trở về Hưng Hóa. Trước khi lên đường trở về, Tống Thượng Tiết đã cố gắng ôn lại tất cả những công việc đã làm và đã viết ra những lời tự phê bình như sau: “Hồ đồ, hồ đồ, những công việc của tôi không một hướng định, chìm nổi, trôi giạt theo những phong trào. Một mặt, tôi thường giảng luận về những huyền nhiệm, nhưng không thể tìm ra được cho mình một lối thoát. Chúa đã nói Ngài đến là để tìm và cứu người đang chết mất. Nhưng đáng thương thay! Biết bao nhiêu người đang lao mình vào những công việc, đang thành lập và thực hiện những phong trào, áp dụng những phương pháp, hoàn tất những kế hoạch, hết thế hệ này tiếp nối thế hệ khác. Nhưng những công việc ấy không đi được vào lòng người, không khiến cho một ai cảm động về tình yêu của Chúa và dĩ nhiên không cứu được một linh hồn nào trở về với Ngài. Há không ai hiểu rằng Chúa Giê-su đến trần gian với mục đích là cứu rỗi kẻ có tội? “Tìm và cứu những linh hồn đang hư vong” mới là điều quan trọng, và cấp bách cần thực hiện ngay bây giờ. Tái tạo, đổi mới một đời sống tâm linh để có một nền tảng căn bản há không quan trọng hơn là cải thiện mức sống con người trong xã hội sao?” Trong khi Tống Thượng Tiết đang thất vọng vì thất bại của những năm qua, thì Chúa đã đột ngột mở cho ông một con đường khác. Ngài hướng dẫn ông đến Nam Xương, chỉ cho ông phương cách để cứu rỗi con người. Hành trình thuộc linh của ông hoàn toàn được đổi mới.
Mục sư William E.Schubert của giáo hội Giám lý tại Nam Xương gửi cho ông một bức thư mời ông đến gấp Nam Xương để chủ tọa một buổi thờ phượng bồi linh. Lời thư thật là khẩn thiết, nói đến lòng trông mong khao khát của hội chúng, khiến cho ông thật cảm động. Nhưng những người lãnh đạo của Hội Thánh Bê-tên biết rằng cuộc hành trình của ông nếu thực hiện sẽ phải trải qua nhiều chặng đường rất hiểm nguy vì nạn thổ phỉ đang nổi dậy cướp của giết người ở khắp nơi, nên họ cũng vì lòng yêu thương, quý mến ông mà khuyên giải không nên đi đến Nam Xương. Thật lòng ông cũng đang hướng về cố hương, mong một chuyến về thăm quê nhà, sau đó sẽ tở lại với công việc Chúa tại miền Bắc nên cũng không hăng hái đi đến Nam Xương cho lắm. Trong lúc đang chờ đợi tàu để xuôi về Nam, thì tiếng của Chúa đã đến để nhắc nhở ông:: “Con hãy đến Nam Xương, giờ đã điểm con sẽ đánh thắng một trận tốt lành và to lớn cho Ta”. Nghe được tiếng phán rõ ràng của Chúa, cho dù trong lòng đang hướng về quê hương, mong ước được về thăm nhà một chuyến, ông liền vâng lời Chúa, cho dù đường xá có xa xôi hiểm trở, cho dù thổ phỉ có đang rình rập dọc đường, ông cũng chẳng quan tâm. Sáng hôm sau ông xuống tàu, ngược dòng sông Dương Tử đi đến Nam Xương. Tới nơi vào trung tuần tháng 2, năm 1931.
Sáng hôm sau, ông liền bắt tay vào việc giảng dạy cho những học sinh, sinh viên. Ông đã làm chứng về chính cuộc đời của mình, những ân điển lớn lao, cùng với sự thăm viếng đặc biệt của Chúa qua đời sống của ông. Những thính giả trẻ tuổi của Tống Thượng Tiết lấy làm thích thú về chân lý của Thánh Kinh qua sự trình bày sống động của ông. Buổi chiều Hội Thánh tổ chức một buổi giảng phấn hưng. Thật ra thì các tín hữu tại đây rất xa lạ với sự phấn hưng, họ không hiểu và cũng không hình dung được phấn hưng là gì, nhưng họ cũng đã nhẫn nại chờ đợi. Lâu sau mới có khoảng 8, 9 chục người lần lượt đến, rồi từ từ đến khá hơn, nhưng tổng số cũng chỉ quá 100 người mà thôi. Tống Thượng Tiết chỉ hướng dẫn và dạy họ học Kinh Thánh. Kinh Thánh họ có là Phúc âm Mác mà thôi. Những đêm sau số thính giả tăng lên 300 đến 400 người, mặc dầu trời mưa giá lạnh, họ cũng chịu khó che dù đến dự. Làm việc như vậy khoảng 1 tuần, ông hỏi Chúa rằng: “Chúa ôi, hiệu quả Chúa hứa đâu mà con chẳng thấy?”. Qua tuần thứ nhì các tín hữu tuyên truyền và khuyến khích các học sinh trường nữ trung học Bão Linh đến tham dự lớp học Kinh Thánh, ban đầu cũng không mấy ai hưởng ứng.
Trong lúc Tống Thượng Tiết thất vọng về công việc tại đây và cầu hỏi ý Chúa: “Chúa ôi, Chúa gọi con đến đây, chẳng lẽ chỉ để nói cho những con người tại đây qua thính giác của họ? Tại sao Chúa không dùng con để khiến cho những người khác được sự cứu rỗi?”
Các nhà lãnh đạo các Hội Thánh tại Nam Xương có ý mời ông lưu lại đây khoảng 1 tháng nên họ đã triệu tập tất cả những truyền đạo nam nữ của 3 giáo khu trong vùng để mở một đại hội truyền giáo và mời ông đến để giảng phấn hưng. Nhưng ý Tống Thượng Tiết lại muốn trở về Phúc Kiến để báo cáo công việc đã làm, nên đã làm cho họ biết rằng: “Giấy phép của tôi đã hết, lý ra tôi đã phải trở về Hưng Hóa, nếu quý ông muốn lưu tôi lại đây để hầu việc Chúa thì phải điện về để xin được triển hạn thêm 1 tháng nữa”. Họ liền thực hiện như điều Tống Thượng Tiết yêu cầu và đã được phép.
Nhưng vì ngày đại hội các truyền đạo chưa đến nên ông đi ra vùng phụ cận là Cửu Giang để truyền bá Phúc âm cho đồng bào. Các tín hữu tại Cửu Giang ham nhóm lại thờ phượng nên mới buổi đầu mà số người đến dự đã lên quá 400 người. Lớp học Thánh Kinh cũng được mọi người hoan nghênh và tham dự thật đông và vui. Những lời giảng dạy và làm chứng của ông đã đụng đến tấm lòng của rất nhiều thanh niên, khiến các học sinh nam nữ tại đây, thật quả giống như những “con nai cái thèm khát khe nước”, họ khao khát chân lý và Lời Chúa. Trong khu vực này có trường Đồng Văn, trường là của giáo hội Giám lý có trên 200 học sinh, hầu hết đã tin nhận Chúa trong kỳ đại hội này, sau đó họ tổ chức những đoàn truyền giảng sau giờ học. Họ ra đi với tinh thần phấn chấn vui tươi truyền bá Phúc âm. Theo dư luận của những tín hữu tại vùng Cửu Giang thì đây thật là một hội đồng phấn hưng chưa từng có.
Khi trở lại Nam Xương, Tống Thượng Tiết cũng không biết là kỳ đại hội các truyền đạo còn đến 1 tuần nữa mới nhóm lại. Những nhà lãnh đạo nơi đây mời ông mở một đại hội phấn hưng cho những người trẻ tại đây. Ông yêu cầu họ phải hiệp chung khẩn thiết, đồng tâm cầu nguyện để làm hậu thuẩn cho lòng monh ước phấn hưng. Ông nói: “Nếu các vị giáo sĩ Tây phương của quí vị, cùng những giáo chức trong các trường học không đồng tâm hiệp ý với tôi đi vòng quanh thành phố này, thì nó cũng giống như thành phố Giê-ri-cô ngày xưa sẽ không bao giờ sụp đổ xuống. Thật ra thì các vị giáo sĩ Tây phương, cũng như các giáo chức trong trường đã thành lập những nhóm cầu nguyện từ lâu nên Tống Thượng Tiết dược sự hậu thuẩn kiên cố này, lòng dũng cảm của ông tăng lên gấp bội phần hơn, ông can đảm tấn công thẳng vào phòng tuyến, đưa cao ngọn cờ Thập tự. Thành trì ma quỷ bị sụp đổ. Chúa đã làm việc lớn lao cả thể trên các Mục sư, Truyền đạo, các bạn trẻ và dân chúng được cứu rất nhiều. Cơn phấn hưng bùng cháy và lan rộng ra khắp vùng xung quanh.
Cơn đại phấn hưng tại Nam Xương đã được chuẩn bị bằng sự cầu nguyện thiết tha từ lâu. Những giáo sĩ Tây phương cũng như những người đồng công Trung Hoa đã cùng nhau dành 1 tháng của năm 1930 để cầu nguyện cho công cuộc phấn hưng, Hội Thánh cứ tiếp tục cầu nguyện không ngừng trong vòng 50 ngày vào đầu năm 1931 thì Tống Thượng Tiết đã được Chúa sai tới Nam Xương.
CHƯƠNG 29
MỘT ĐÊM KHÓ QUÊN TẠI NAM XƯƠNG
NGÀY 5 THÁNG 3 NĂM 1931
Giô-suê đã tiến quân và toàn thắng nơi chiến trận là hoàn toàn nhờ vào sự cầu nguyện, và cây gậy của Môi-se luôn được đưa cao trên núi. Những hội đồng phấn hưng cũng tương tự như trận chiến ngày xưa, không phải chỉ là tài năng của sứ giả phấn hưng, nhưng là nhờ dân sự Chúa đưa tay lên khẩn thiết cầu nguyện. Tống Thượng Tiết cũng thường nói là người sứ giả phấn hưng chẳng có gì để đáng khoe, tất cả những sự kiện xảy ra trong những cuộc phấn hưng mà chúng ta có thể thấy được là hoàn toàn nhờ vào những đoàn cầu nguyện và cầu thay. Khi biết được Hội Thánh tại Nam Xương có những đoàn đã đồng tâm cầu nguyện, Tống Thượng Tiết tin chắc rằng sẽ có một cơn đại phấn hưng không thể ngờ được sẽ xảy ra tại đây.
Tống Thượng Tiết đã cảm kích nhất là tấm lòng của giáo sĩ Schubert, vị giáo sĩ này thường rất ít ngủ, dành nhiều thì giờ ban đêm để quì gối cầu nguyện thiết tha với Chúa, ông cầu nguyện với những dòng nước mắt khẩn đảo. Có một đêm, trời đã về khuya, Tống Thượng Tiết đã lên giường, bỗng nghe văng vẳng từ trên lầu vọng xuống những tiếng khóc hòa trong lời cầu nguyện thiết tha, đó là những lời cầu thay của giáo sĩ Schubert. Giáo sĩ thường cầu xin với Chúa: “Chúa ôi, ngày nay Chúa không ban cho một cơn phấn hưng tại Nam Xương thì còn đến bao giờ nữa? Chúa ôi! Nếu lần này Ngài không phấn hưng Hội Thánh của Chúa tại Nam Xương thì Ngài đã làm ngược lại niềm tin ban đầu của con, khi con dâng mình vượt trùng dương đến đất nước Trung Hoa này. Nếu vậy, xin Chúa cho phép con trở về nước”. Những lời cầu nguyện của giáo sĩ Schubert đã cảm động sâu xa tấm lòng Tống Thượng Tiết. Ông liền được thúc giục chờ dậy, mặc áo dài vào và cũng quì gối cầu nguyện: “Lạy Cha, còn con, con đến đây không phải được Cha dùng để đem lại sự phấn hưng cho giáo hội tại Nam Xương sao? Xin Cha, chính Cha làm những việc diệu kỳ, xin Cha dùng con và chúng con là những người đang ngưỡng trông lên Cha. Giáo sĩ Schubert và Tống Thượng Tiết đã cầu nguyện như thế suốt đêm.
Sau khi khẩn thiết cầu hỏi Chúa, Ngài đã ban cho một khải thị, Chúa dạy Tống Thượng Tiết phải đả kích tội lỗi, vì tội lỗi là màn chắn đã che khuất lòng người, chiếc màn đen ấy phải được vén lên thì ánh sáng thật của Phúc âm mới có thể chiếu dọi qua được để mang lại sự sống đời đời. Đêm hôm đó đối với Tống Thượng Tiết là một kỷ niệm sâu đặm. Sự mặc khải về phương hướng mới đó là một chuyển hướng cho việc làm của ông. Cũng bắt đầu từ cái đêm không thể quên ấy (5 tháng 3, 1931) ông không còn đặt nặng vấn đề huyền bí cho mình nữa, mà những gì của ông có phải là quyền năng đối phó với tội lỗi. Đêm hôm ấy Chúa đã ban cho Tống Thượng Tiết một số sứ điệp để công kích, đã phá tội lỗi như: Đoàn quỷ của Giê-sa-sê, người con trai hoang đàng, những kẻ giả hình… Tất cả những sứ điệp này ông đã dùng nhiều lần ở nhiều nơi, và quyền năng của sứ điệp này không bao giờ bị giảm sút.
Ngày của đại hội dành cho Mục sư, Truyền đạo đã đến. Tống Thượng Tiết được mời chủ tọa và ban phát sứ điệp của Chúa suốt tuần lễ đầu cho đại hội phấn hưng thanh niên. Trong những bài giảng luận, không bao giờ ông quên nhắc đến tội lỗi. Và ông cũng đã mời những người muốn ăn năn tội tỗi đến trước tòa giảng để cầu nguyện. Ông hướng dẫn họ mở miệng cầu nguyện với Chúa, lúc đầu vì còn e ngại, không ai dám mở miệng, nhưng sau đó thì được Chúa Thánh Linh soi sáng, dần dần có những tiếng khóc, và những lời cầu xin trong nghẹn ngào và nước mắt. Thậm chí có những hiệu trưởng đã nhận tội lỗi với học sinh, các vị giáo sư ăn năn tội, và xin lỗi nhau, các học sinh ôm nhau mà khóc lóc vì những lỗi lầm đã đối xử tệ với nhau. Tống Thượng Tiết nói rằng: “Khi con người nhận biết tội lỗi của mình thì họ cần dến Cứu Chúa. Rồi sau đó, nếu chúng ta trình bày Đức Chúa Trời đã thương yêu tội nhân đến mức độ nào và đang chờ đợi sự ăn năn hối cãi của tội nhân, và khi một tội nhân đã ý thức được như thế thì không ai có thể cầm được những dòng nước mắt trước tình yêu thương diệu kỳ của Thiên Chúa”. Trong đại hội phấn hưng đó, chẳng những Chúa Thánh Linh đã soi sáng và cáo trách tội lỗi của con người và hối thúc họ tìm đến sự cứu rỗi mà cũng còn dạy con người nhìn biết Chúa Cứu Thế là Đấng hướng dẫn con người đi đến chân lý. Trước đó Tống Thượng Tiết chỉ biết công việc của Đức Thánh Linh là âm thầm tác động và đổi thay lòng người, chứ không ngờ là công khai bắt phục lòng người. Tại Nam Xương, ông đã chứng kiến Đức Thánh Linh công khai bắt phục hơn 180 người.
Qua tuần lễ thứ nhì là hội đồng của các Mục sư, Truyền đạo, tất cả những người tham dự đều là lãnh tụ của Hội Thánh. Mỗi người đều là mục tiêu của Tống Thượng Tiết nhắm vào. Ông quyết định dùng chiến thuật “đánh từng bước”, bước thứ nhất là cáo trách tội lỗi, vì nếu một người truyền đạo của Chúa mà chưa thanh toán xong với chính mình cái nợ tội lỗi, chưa dốc đổ bằng hết ra những dơ bẩn của chiếc bình đựng thì làm sao có năng lực để công phá thành lũy kiên cố của tấm lòng người khác. Bước thứ hai thì ông đặc biệt chú trọng đến công việc của Đức Thánh Linh. Đừng, đừng bao giờ dập tắt những xúc cảm về Thánh Linh để có thể khiến Ngài phải buồn lòng, vì Ngài luôn luôn sẵn sàng đồng công với những người thuận phục, “Ấy chẳng phải là bởi quyền thế cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần Ta.” Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
Đã định xong chiến lược, tiếp theo là bố trí trận địa, ông mời tất cả các vị lãnh tụ giáo hội ngồi vào hàng giữa của nơi nhóm họp, ngồi bao quanh họ là những học sinh mà tuần qua đã được Chúa thăm viếng, bắt phục, họ đã thật sự ăn năn hối cãi và đã nhận được một đời sống đổi mới. Những đứa con sơ sinh này trong Chúa cũng rất quan tâm đến những bậc lãnh tụ tâm linh của mình. Họ hát ngợi khen Chúa thật hồn nhiên. Hôm đó sứ điệp của Tống Thượng Tiết nhấn mạnh những tội ô ở trong thâm tâm phải được gội rửa thật sạch mới có thể được tràn đầy sức sống của Chúa Cứu Thế. Những sự thăm viếng diệu kỳ của Chúa trong kỳ đại hội này thật không xiết kể. Sau mỗi buổi thờ phượng và nghe sứ điệp phấn hưng, những con cái của các vị Mục sư truyền đạo đồng loạt quỳ xuống tại những ghế ngồi của họ và lớn tiếng cầu nguyện: “Cầu xin Chúa tẩy rửa sạch tội lỗi bố mẹ chúng con, để cho bố mẹ chúng con là những người hầu việc Chúa không tỳ vết, thánh sạch, được đứng tự nhiên trước mặt Chúa và xứng đáng đảm trách chức vụ thiêng liêng là hướng dẫn Hội Thánh thờ phượng Thiên Chúa”. Trong hàng ngũ những vị Mục sư, Truyền đạo ngoại trừ những vị được sâu nhiệm trong ân sủng của Chúa thì khiêm cung tiếp nhận những lời cầu nguyện của con cái mình, còn hầu hết đều đã để lộ tự ái và sự nóng giận. Họ rất căm giận ông và cho rằng: “Tống Thượng Tiết là người khởi xướng cách mạng gia đình, xúi giục con cái của họ tỏ thái dộ bất hiếu, và đến đây cố tình đả đảo và bêu xấu cha mẹ chúng”. Tuy rằng những lời chỉ trích này hoàn toàn không đúng sự thật, nhưng ông cũng nhận khuyết điểm là việc cáo trách tội lỗi cách tiêu cực như thế này không hợp với các lãnh tụ giáo hội lúc bấy giờ.
Trước khi rời Nam Xương, Tống Thượng Tiết hướng dẫn những người đã được Chúa thăm viếng đến làng Giá để truyền bá Phúc âm, đoàn viên lên đến hơn 200, gồm đủ mọi thành phần: hiệu trưởng, học sinh, giáo viên, cũng như giáo sĩ, Mục sư, Truyền đạo. Rời làng Giá, họ trở về Nam Xương, trên đường về đoàn gặp phải một trận mưa như trút nước và gió rất lớn, đến nỗi làm gãy mất 13 cây dù của họ. Đoàn người tuy gặp trận mưa to gió lớn như vậy, ai nấy đều ướt như chuột lột, nhưng chẳng có một lời than vãn nào, mà ngược lại, hình như trận mưa lớn đó đã gột rửa tất cả tội lỗi của họ một cách cụ thể, nên có những người cất tiếng khóc nhưng hoan hỉ trong ăn năn, có người cất tiếng nguyện cầu trong ngợi khen, có người cất tiếng hát vang, tất cả những âm vang đó như một tấu khúc hoan ca vang cao đến tận từng mây.
Có những thanh niên vô đạo, quá khích lúc nào cũng la lớn tiếng những khẩu hiệu đả kích Cơ-đốc giáo, nhưng nay họ thấy ngày phán xét đã hầu gần nên ăn năn tội lỗi, xin Chúa thứ tha những lời phạm thượng vô tín của họ. Những giáo sĩ Tây phương thấy cảnh tượng lạ lùng ấy, tưởng rằng đoàn người này lên phát điên nên họ rất sợ hãi và trốn biệt không còn một ai trong đoàn người truyền giáo ấy trở về. Riêng Tống Thượng Tiết nghe rõ tiếng Chúa nói vào tai như tiếng gió Thánh Linh. Hiện tượng này cũng là một điều rất kỳ dị cho chính ông.
Trận mưa lớn của Đức Thánh Linh như gội rửa sạch mọi xấu xa ô uế. Những tấm lòng như những thửa ruộng khô cằn lâu ngày, nay được một cơn mưa thấm nhuần, những linh hồn thống hối đau thương đã được an ủi, sau cùng là những lời ngợi khen Chúa thay cho những lời khẩn cầu thống hối. Niềm vui muôn hòa trong lời ca tụng vang dội trong hội trường tại Nam Xương trong những ngày sau đó. Năng lực đó thật diệu kỳ, và Tống Thượng Tiết đã ghi lại trong hồi ký như sau: “Thắng lợi tại Nam Xương đã dạy cho tôi một bài học về bí quyết của sự phấn hưng: Phải triệt để xưng hết tội lỗi của mình, thứ đến là xin cho được xức dầu bằng Đức Thánh Linh, cuối cùng là phải làm chứng về Chúa và cho Chúa. Ngày trước khi tôi đọc cuộc đời của John Wesley, mỗi lần ông truyền giảng thì đưa được rất nhiều người về với Chúa, tôi vô cùng ngưỡng mộ vị tôi tớ này của Chúa, bây giờ tôi đã tìm hiểu được bí quyết đả đạt được kết quả đó rồi!”.
CHƯƠNG 30
TỪ NAM TẦM ĐẾN THƯỢNG HẢI
VÀ NINH BA (1931)
Ngọn lửa phấn hưng tại Nam Xương đã lan dần đến Cửu Giang. Công việc truyền giảng của Tống Thượng Tiết tại Cửu Giang cũng được đầy dẫy năng quyền của Chúa Thánh Linh khiến cho các Hội Thánh tại Cửu Giang cũng được Chúa thăm viếng và tẩy sạch tội lỗi như tại Nam Xương. Những “con đỏ” trong Hội Thánh tại Nam Tầm mới được tái sanh, đã viết những bài chứng thực quyền Chúa trên đời sống của họ, được đăng tải trên các tạp chí của Cơ-đốc giáo, khiến cho tiếng đồn về ân tứ của những sứ điệp phấn hưng của Tống Thượng Tiết vang xa khắp nơi. Hội Thánh nào cũng dạt thư hay điện tín đến mời ông đến giảng phấn hưng cho họ.
Nơi Tống Thượng Tiết nhận lời mời đầu tiên là Hổ Hồ, vị giáo sĩ Tây phương đang truyền giáo không tin là Chúa Cứu Thế Giê-su đã được sanh ra bởi một người nữ còn đồng trinh. Lực cản trở lớn của tín lý sai lầm đó, cũng như không có người cầu thay đã làm công việc Chúa nơi đây rất trì truệ, thành quả của đại hội phấn hưng cũng rất khiêm nhường. Sau 8 ngày đại hội, chỉ có 51 người viết bài thực chứng quyền năng của Chúa.
Về đến Thượng Hải, Tống Thượng Tiết chủ tọa cho một trại dưỡng linh của toàn thể tín hữu ở tại đó. Chủ đề sứ điệp của Tống Thượng Tiết tại giáo đường Hội Thánh Bê-tên là: “Sự huyền nhiệm của sách Sáng thế và sách Khải thị”. Tiếp theo ông giảng cho một hội đồng bồi linh tại một Hội Thánh khác kéo dài trong 8 ngày. Vì mỗi ngày chỉ có dịp giảng 1 buổi nên ông không dám bỏ qua cơ hội, và đã khẩn thiết cầu nguyện xin Chúa cho những sứ điệp đặc biệt mạnh mẽ để tấn công tội lỗi; xin Lời Chúa đâm thấu vào lòng tất cả những người đến tham dự đại hội, cho ai nấy đều thống hối về tội lỗi của mình. Sau khi ban phát những sứ điệp đó, ông đã kêu gọi những người muốn ăn năn tội lỗi của mình đến trước tòa giảng quỳ gối cầu nguyện xưng tội với Chúa. Mỗi buổi giảng bồi linh, số người đến tham dự hơn cả ngàn, khiến cho ngôi giáo đường rộng lớn không còn một chỗ trống và sau mỗi bài giảng, đáp ứng lời kêu gọi, người lên trước tòa giảng để cầu nguyện ăn năn xưng tội có khoảng 300 đến 400 người. Tiếng khóc lóc thống hối ăn năn làm cho rúng động cả ngôi giáo đường. Quả là một bầu không khí của một cộng đồng được Chúa thăm viếng và phấn hưng. Tống Thượng Tiết được thúc giục kêu gọi những thân hữu đưa tay lên để được cầu nguyện tin nhận Chúa, lập tức hàng loạt những bàn tay giơ cao xin cầu nguyện và xưng tội, Tống Thượng Tiết nhận thức rằng, sự cầu nguyện an ủi cho những linh hồn đang đau thương vì tội lỗi của họ là điều không thể thiếu được của một sứ giả phấn hưng.
Tiếp đến là hội Truyền giáo của 5 giáo khu Giám lý tại Nam Kinh tổ chức đại hội phấn hưng và mời Tống Thượng Tiết đến giảng Lời Chúa cho đại hội. Sau khi cầu hỏi ý Chúa và được Ngài cho phép, ông đáp xe đến Nam Kinh. Đại hội được tổ chức tại một ngôi giáo đường trong khu mua bán quần áo thuộc trung tâm thành phố. Lúc đầu ban tổ chức đại hội chỉ dành cho sự giảng Lời Chúa trong vòng 1 tiếng đồng hồ, nhưng về sau vì nhu cầu của sự khát khao của thính giả nên giờ giảng dạy tăng lên 2 tiếng đồng hồ và mỗi ngày 2 buổi. Nhưng rất tiếc là vì Tống Thượng Tiết bị lên cơn đau tim nên những buổi giảng bồi linh phải thu nhỏ lại và dời đến một địa điểm khác với ngôi giáo đường nhỏ hơn. Những người được đượm nhuần ân phước trong kỳ đại hội này là các sinh viên thần học và những Truyền đạo. Sau kỳ đại hội này, Tống Thượng Tiết phải về lại Thượng Hải để nghỉ ngơi.
Lúc đang còn hầu việc Chúa tại Nam Kinh, Tống Thượng Tiết đã được thư của một nữ giáo sĩ thuộc giáo phái Giám lý tại Thường Châu, cô Ella Leverech, mời ông đến giảng lời Chúa. Lúc mới xem được thư ông đã vội nhận lời, nhưng được bạn bè khuyên ông nên về Hưng Hóa ngơi nghỉ một thời gian là hơn. Cũng lúc ấy, ông nhận được điện tín từ quê nhà mời ông về dạy một khóa huấn luyện. Ông liền hồi âm cho nữ giáo sĩ Leverech, nói rõ lý do bệnh hoạn nên không thể đến Thường Châu được. Bệnh tim của ông càng ngày càng trầm trọng khi về đến Thượng Hải. Bác sĩ cho ông hay ít nhất ông phải nghỉ ngơi trong vòng nửa năm.
Nhưng trong một đêm kia, Tống Thượng Tiết được Chúa cho biết là ông phải đến Thường Châu để giảng dạy Lời Chúa tại đó. Ngày mà Chúa sai ông ra đi đến “đồng lúa”cận kề, thì đồng thời Chúa cũng chỉ rõ rằng chính kiêu ngạo là cội rễ của căn bệnh đau tim của ông. Bấy giờ, Tống Thượng Tiết xét nghiệm lại tận đáy lòng mình, nhận ra rằng sở dĩ mình đã không nhận lời mời đến Thường Châu vì nơi đây chỉ là một thị trấn nhỏ bé.
CHƯƠNG 31
CỘNG TÁC VỚI GIÁO HỘI BÊ-TÊN (1931)
Những cơ hội đến thật bất ngờ. Vì thân mẫu mục sư của Mục sư Thạch Mỹ Ngọc – quản nhiệm Hội Thánh Bê-tên tại Thường Châu qua đời nên Đoàn Truyền giáo của giáo hội Bê-tên đã từ Sơn Đông về để dự tang lễ. Đoàn truyền giáo này không phân biệt nơi phải đến truyền giảng, dầu là thành phố đông đúc hay tỉnh lỵ nhỏ bé ít người, Đoàn đã nhận lời mời của Hội Thánh Thường Châu và đồng thời cũng mời Tống Thượng Tiết gia nhập vào Đoàn. Ông nhận lời của họ đến Thường Châu để cùng làm việc chung, nhưng sau này có gia nhập vào giáo hội Bê-tên hay không thì đó là vấn đề khác. Một hôm đang đứng rao truyền Phúc âm thì bệnh tim lại bộc phát, nhưng ông vẫn cố gắng giảng cho xong, qua ngày thứ hai tim ông lại một lần nữa lên cơn đau, nhưng ông cũng không quan tâm lắm, vì ông chỉ cố gắng muốn làm cho Chúa vui lòng, cho nên vẫn lên bục giảng như thường cố quên mình mà hầu việc Ngài. Trước khi giảng ông đã có lời trăn trối: “Có thể đây là lần giảng cuối cùng, nhưng tôi cũng cám ơn Chúa vì còn hơi thở để nói lên lời Ngài”. Và trong khi truyền giảng như lệ thường ông hay chạy lui chạy tới, nhảy lên rồi nhảy xuống bục giảng, và trong lúc hăng say truyền bá Phúc âm ấy thì Chúa đã chữa lành bệnh cho ông.
Sau khi được Chúa chữa lành bệnh, mỗi ngày Tống Thượng Tiết dành 2 buổi để giảng phấn hưng cho Hội Thánh và 1 buổi truyền giảng cho người chưa tin nhận Chúa. Ông cùng với 3 vị Mục sư khác luân phiên đảm nhận trách nhiệm ban phát sứ điệp của Chúa là các ông Lâm Cảnh Khang, Nhiếp Tử Anh và Lý Đạo Vinh.
Các trường học trong vùng cũng mời họ đến để chủ lễ những buổi thờ phượng buổi sáng. Trong lúc ấy thì Lý Đạo Vinh lâm bệnh nặng, chương trình không có ai đảm trách nên ban tổ chức phải dùng điện thoại đường dài mời Mục sư Kế Chí Văn – đang ở Thượng Hải thăm bà nội lâm trọng bệnh – đến để giúp đỡ trong việc ban phát sứ điệp của Chúa. Mục sư liền đáp xe lửa đi Thường Châu. Mặc dù trời đang mưa tầm tả cũng đến ngay giảng đường, vừa lúc buổi truyền giảng đã bế mạc, thính giả khoảng 700 đến 800 người cũng đã ra về. Hôm đó Tống Thượng Tiết đã dùng đề tài “người con trai hoang đàng hối cãi”, số người được Chúa bắt phục và ăn năn thật đông. Đặc biệt có một thiếu nữ đã được sự cảm động và ăn năn trong thống hối cho đến đỗi không thể trở dậy được. Mặc dù đã quá mệt mỏi sau buổi truyền giảng, Tống Thượng Tiết cũng muốn quỳ xuống bên cô ta để giúp cô cầu nguyện. Đúng lúc Mục sư Kế Chí Văn vào, ông liền mời Kế Mục sư giúp đỡ cho cô ấy. Sau này, Vương Mẫu Học, tên cô gái, thường nhắc lại rằng, cô là bông trái của 2 vị Tống và Kế Mục sư. Cô Vương Mẫu Học cũng chính là người sau này giúp cho Tống Thượng Tiết thực hiện xong hồi ký “Lời Chứng Của Tôi”.
Ngày 18 tháng 5 Đoàn Truyền giáo rời Thường Châu đến Thượng Hải. Lúc bấy giờ Tống Thượng Tiết được rất nhiều nơi mời để giảng phấn hưng. Trong lúc đang hoang mang chưa biết phải quyết định đến nơi nào, thì Đoàn Truyền giáo quyết định đến Thanh Đảo. Mục sư Kế Chí Văn gợi ý mời Tống Thượng Tiết cùng đi với Đoàn; ông liền chấp thuận vì đã được Chúa cho phép từ trước. Chúa muốn ông đến các hải đảo để hầu việc Chúa và khi nghe đến tên Thanh Đảo, thì ông biết ngay đây là nơi Chúa muốn sai mình đi. Ở Thanh Đảo có nhiều tín hữu thuộc nhóm Linh Ân (Charismatic), họ rất coi trọng những biểu hiện bên ngoài như nói tiếng lạ, hát những ca khúc bột phát “thiêng liêng”, thấy khải tượng hay là thấy những cơn dị tượng. Nhóm này chủ trương rằng phải có những biểu hiện này mới là bằng chứng xác thực được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Khi nghe vị quản nhiệm triệu tập nhóm lại thì mỗi người như những kịch sĩ đóng vai trò của mình trên sân khấu. Tống Thượng Tiết rất mong muốn giúp họ có sự bình an thật sự đến từ Cứu Chúa và đồng thời thật sự có những ân tứ thiêng liêng đến từ Đức Thánh Linh, nhưng ông chưa tìm ra một giải pháp nào. Khi Đoàn Truyền giáo lưu động đến một vùng quê hẻo lánh, làng Đại Tân Diệp, Hội Thánh nơi đây do Mục sư Đinh Lập Mỹ quản nhiệm, tâm trí ông đang bối rối, suy nghĩ về những biểu hiện của nhóm Linh Ân. Không thể tập trung tinh thần đề giảng nên muốn làm thính giả để nghe Mục sư Kế Chí Văn giảng dạy. Hôm ấy Kế Mục sư đã dùng phân đoạn Kinh Thánh về người đàn bà Sa-ma-ri làm đề tài. Trong khi ngồi nghe lời Chúa, ông được sự soi sáng từ thiên thượng, ông kể lại rằng: “Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh trong những người tin nhận Chúa Cứu Thế trở thành một mạch nước sống trong tâm hồn cho đến đời đời, nhưng có biết bao nhiêu người đang khát nhưng không biết cách nào để có thể uống được mạch nước sống không bao giờ cạn tắt đó. Họ mất công dồn hết sức lực gánh vác những dụng cụ nặng nề đi tìm và kéo nước dưới những giếng xưa cũ sâu thẳm. Nước ấy ngày càng cạn dần, gánh nặng trên vai cũng càng nặng hơn, cho đến bao giờ mời được an nghỉ? Càng mệt nhọc, càng khát, càng khát phải càng đi tìm và kéo nước, càng kéo càng múc lại càng khát thêm, rồi gánh vác, rồi mệt mỏi… vòng lẩn quẩn cứ thế quay đi, quay lại.. không bao giờ đến nơi ngơi nghỉ được! Ôi! Anh chị em ôi! Tội ác phải được trục xuất ra khỏi tấm lòng thì nước hằng sống mới có thể tràn vào, đừng cất công gánh vác những gánh nặng nề là tội lỗi để đi tìm và múc nước, không phải nước hàng sống. Đức Chúa Trời không dạy cho quý ông bà trở nên thanh sạch trong những dị tượng, nói tiếng lạ hay tìm vui sướng thỏa mãn trong những biểu hiện ấy. Nhưng Ngài muốn chúng ta là những ống dẫn trống không và tinh sạch, hầu cho nguồn nước sống từ Chúa Thánh Linh có thể tuôn trào đến cho những linh hồn đang khô cạn, khiến cho những tấm lòng khô cằn đó có thể kết những bông trái của Thánh Linh. Vì vậy sự ban cho là nguyên tắc duy nhất đúng để mà nhận được. Dốc đổ lòng mình để trở thành rỗng không, thuận phục trọn vẹn ý chỉ của Đức Chúa Trời, làm chứng về Chúa với tấm lòng đầy yêu thương mới là con đường chính đáng đề theo đuổi, tìm kiếm và gìn giữ được sự tràn đầy ân tứ Đức Thánh Linh.
CHƯƠNG 32
TRƯỚC VÀ SAU BUỔI TRUYỀN GIẢNG
MÙA HÈ TẠI THƯỢNG HẢI (1931)
I. TỪ SƠN ĐÔNG ĐẾN THƯỢNG HẢI
Đoàn Truyền giáo tuần hoàn vừa đến thành phố Tức Mặc tại Sơn Đông thì hay tin nữ truyền đạo phấn hưng Dư Từ Độ đã qua đời, Mục sư Kế Chí Văn cũng được tin bà nội đang hấp hối. Mục sư phải quay lại Thượng Hải, Tống Thượng Tiết tạm thời xử lý công việc Đoàn Truyền giáo lưu động. Trong dịp này Tống Thượng Tiết thực hành khải tượng mà ông đã nhận được khi đang phục vụ tại Đại Tân: Tống Thượng Tiết bắt đầu bằng cách tổ chức lại những dội ngũ truyền giảng Tin Lành. Sau này khi Đoàn đến truyền giảng tại Tế Nam thì một mình Tống Thượng Tiết đảm trách việc giảng dạy. Ông đã giải bày tỏ tường chân lý tinh túy về “nguồn nước sống” trong đề tài “Người đàn bà Sa-ma-ri”.
Đoàn Truyền giáo từ Tế Nam đến Thái An, lúc phong trào chống Cơ-đốc giáo khởi phát. Các giáo đường bị đập phá, các giáo sĩ tạm thời phải lẫn tránh, các trường thần học của các giáo hội đều ngưng hoạt động. Khi Đoàn Truyền giáo Tin Lành đến những nơi có thể cư trú đó thì ngoài những chiếc giường được đắp bằng đất ra, tất cả những gia dụng khác đều bị cướp sạch. Trong hoàn cảnh đó mọi người đều rất nản lòng, và Chúa đã dùng Tống Thượng Tiết đến để nâng đỡ an ủi họ. Đoàn cũng tổ chức được 3 lần truyền giảng và đã cứu trên 100 người. Trong số đó có một thanh niên mới 19 tuổi, đời sống của thanh niên như đã phạm đủ cả 10 điều răn, nhưng sau khi nghe Tống Thượng Tiết giảng đề tài “người con trai hoang đàng” thì thanh niên này đã thật sự hối cãi ăn năn.
Đoàn rời Thái An đến Dịch Huyện, ông Lâm Cảnh Khang lại ngã bệnh, nhân sự của Đoàn chỉ còn 3 người hoạt động bình thường. Thính giả tại Dich Huyện đa số là đàn bà rất ít học, nên Tống Thượng Tiết phải dùng phương pháp trình diễn để mọi người có thể hiểu được dễ dàng. Ông vác lên vai một tảng đá lớn, có vẻ như đi không muốn nổi vì không đủ sức. Ông để tảng đá xuống trên bục giảng, bắt đầu nói về khổ đau của gánh nặng tội lỗi. Sau đó ông hất những tảng đá xuống những tấm ván để trên bục giảng, tảng đá va vào ván vang lên một tiếng rầm nặng nề. Ông liền cất tiếng ca hát, khiến cho khán thính giả cảm nhận được niềm vui sướng khi con người được buông tha khỏi gánh nặng tội lỗi. Sau đó Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện cho những người bị bệnh. Lời cầu nguyện của ông rất linh nghiệm, những người hưởng được sự bình an khi tội lỗi được tha thứ có khoảng chừng 80 người. Công việc của Đoàn Truyền giáo tại tỉnh Sơn Đông thật rất diệu kỳ và hiển nhiên.
Sắp sang năm 1931 nên Đoàn Truyền giáo phải lo trở về Thượng Hải. Khi trại hè dưỡng linh khai mạc cũng là lúc nội chiến Trung Hoa đến giai đoạn quyết liệt. Trục lộ mọi nơi đều bị phá hoại nên vấn đề giao thông trở nên vô cùng khó khăn, dầu vậy số người đến dự trại vẫn rất đông. Đa số là những tín hữu ở khắp mọi nơi đã được Chúa thăm viếng đặc biệt khi nghe sứ điệp qua Tống Thượng Tiết. Nếu kể những người ở địa phương vùng Thượng Hải thì tổng số lên trên 1.200 người. Chủ đề của đại hội dưỡng linh mùa hè là “Phục Hưng” và đã chia ra những tiểu đề là “Phục hưng trong cầu nguyện”, “Phục hưng trong hát tôn vinh”, “Phục hưng trong đọc Kinh Thánh”, “Phục hưng trong phục vụ”, và “Phục hưng trong truyền giảng”. Những sứ điệp của Tống Thượng Tiết đa số quay quanh chân lý về sự thánh hóa. Một hôm vào khoảng giữa của trại hè, ông đã quá cố gắng trong khi ban phát sứ điệp, nên đã mệt lả và mồ hôi ra đẫm ướt cả chiếc áo dàu vài xanh, như vừa lội dưới nước lên vậy. Trước khi chấm dứt, tuy đã kiệt lực, nhưng ông vẫn cố gắng hỏi câu cuối cùng cách thành khẩn và thúc bách: “Thưa các ông bà, anh chị em đã chuẩn bị sẵn sàng chưa? Các anh chị em nghĩ rằng những bàn tay làm việc thiêng liêng của mình đã được rửa sạch chưa? Trong đời sống của anh chị em đã có năng lực của Chúa Thánh Linh chưa? Nếu chưa có, hãy xin Chúa ban cho, hãy cầu nguyện, hãy đứng dậy cầu nguyện đi!” Sự đáp ứng của hội chúng là thường thường tất cả đều đứng dậy. Đồng tâm cầu nguyện vì chính mình và vì mong muốn đồng bào Trung Hoa sớm được quay về với Chúa Cứu Thế Giê-su mà lên tiếng cầu thay. Cảnh tượng của hội chúng đồng thanh cầu nguyện lúc ấy cơ hồ như những bàn tay đưa lên, đưa lên cao có thể với tới cây gậy bằng vàng của vị nguyên soái đại quân. Hội chúng cầu xin điều gì đều được đáp ứng điều ấy. Cảnh huống ấy không những xảy ra hàng ngày, mà có thể nói là đã xảy ra thường xuyên trong các buổi thờ phượng bồi linh. Sau khi cầu nguyện tương giao với Chúa, gương mặt của các đại biểu đều ngời sáng như phản chiếu niềm vui thiên thượng khi đã nhận được báp-têm bằng Thánh Linh.
Tronh những lớp học Thánh Kinh, Tống Thượng Tiết dạy về Phúc âm Mác và sách Công vụ. Ông tuyên bố rằng: “Phúc âm Giăng là phương thuốc của Thượng Đế để chữa trị căn bệnh tội lỗi, và sách Công vụ là bài học quý báu nhất về sự đầy dẫy Đức Thánh Linh”. Trại hè dưỡng linh kéo dài trong 10 ngày và ngày cuối cùng dành cho hội chúng làm chứng. Rất nhiều những Mục sư quản nhiệm các Hội Thánh lớn, dạn dĩ đứng trước hội chúng thừa nhận những tội lỗi của mình như: Không có lòng yêu thương, không có lòng nóng nảy hầu việc Chúa, đồng thời họ cũng nói ra những khải tượng họ nhận được trong kỳ trại này. Họ đã đồng tâm đem đời sống mình dâng lên trước bàn thờ của Chúa. Buổi làm chứng bế mạc cho trại hè kéo dài vài tiếng đồng hồ. Người dự trại có cảm tưởng rằng nếu chưa xưng hết tội lỗi của mình ra thì trại hè chưa kết thúc được. Chính Tống Thượng Tiết mục kích tận mắt những con người được Đức Thánh Linh thôi thúc thú tội lỗi của mình và những người thú tội được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Ngày bế mạc trại hè là một ngày vui mừng, phước hạnh chưa từng thấy và không thể tả cho cùng.
II. TAI BIẾN TRÊN HÀNH TRÌNH VỀ HƯNG HÓA
Vợ của Tống Thượng Tiết, nữ sĩ Dư Cẩm Huê, là một trong những người theo dự trại hè dưỡng linh. Khi trại bế mạc, Tống Thượng Tiết định cùng vợ về quê. Trước khi khởi hành, Chúa đã báo cho ông biết là trên đường về sẽ gặp môt tai biến lớn, nhưng ông không thể biết đó là tai biến loại hạng nào: Gặp hải tặc? Hay tai nạn đắm tàu? Lâm trọng bệnh giữa đường? Hay tai nạn đột ngột chết người? Những người cùng chung chuyến tàu hôm ấy đa số đều cùng quê Hưng Hóa. Khi nghe Tống Thượng Tiết báo trước cho biết trên đường về sẽ gặp tai biến không lường trước được, không ai chịu tin. Có người chỉ nhếch mép cười, không thèm để ý, cũng có người nói lời trêu chọc ông, cũng có kẻ trách Tống Thượng Tiết sao nói những lời trù ẻo, không may mắn trước khi khởi hành! Nếu biết trước tai biến sẽ phải xảy ra, tại sao ông cũng đi chung chuyến tàu đó?
Đông Cảng là tên chiếc tàu hàng chở đoàn người đi dự trại hè về Hưng Hóa. Ngày thứ nhất thì gió lặng sóng bằng, nhưng qua ngày thứ hai thì chiếc máy hơi nước trên tàu bỗng nhiên bị nổ tung, chiếc tàu mất thăng bằng nghiêng lệch hết bên này rồi nghiêng sang bên kia, hành khách hầu hết đều bị say sóng rất nặng. Tống Thượng Tiết nghĩ ngay đến việc thành lập nhóm cầu nguyện, mời tất cả tín hữu trên tàu đều tham gia, có người đồng ý, cũng có người hứa tham gia, nhưng thật ra chưa ai dám lên tiếng cầu nguyện. Nước uống trên tàu đã cạn, chiếc máy hơi nước thứ 2 cũng nổ nốt, thân tàu bị chấn động mạnh vì sức ép của tiếng nổ, nên bị bể nhiều nơi và nước biển tràn vào lòng tàu. Thủy thủ đoàn bắt đầu ném hàng hóa xuống biển, hy vọng cho tàu nhẹ bớt. Họ cũng chia phiên nhau tát nước trong tàu ra để giữ cho con tàu nổi trên mặt nước, nhưng tất cả chỉ là công dã tràng, mọi người đều thấy rõ là chỉ và giờ đồng hồ nữa thôi thì con tàu sẽ chìm hẳn. Tiếng khóc than đã vang lên khắp nơi trên tàu. Lúc bấy giờ những người ấy mới hợp cùng những tín hữu mà cầu nguyện. Riêng Tống Thượng Tiết, người chỉ lầm tư lặng yên mà chiêm ngưỡng Giê-hô-va Đức Chúa Trời Hằng Hữu. Bỗng nhiên cảnh tượng chìm tàu của Sứ đồ Phao-lô trong khi bị giải qua Ý đại lợi như được quay diễn lại thật rõ ràng. Ông tin chắc rằng cho dẫu có xảy ra bất cứ chuyện gì thì cũng không nguy hại được đến tính mạng nên ông thật bình tĩnh và can đảm yên ủi, khích lệ mọi người trong cơn nguy kịch đó. Giống hệt thái độ và hành động của Phao-lô trên con tàu Alexandria ngày xưa. Trong khi mọi người trên tàu đều ngóng trông vào biển cả mênh mông, chỉ hy vọng có một chiếc tàu nào trông thấy mà đến cứu nguy! Họ trông ngóng như thế từ sáng đến trưa thì bỗng thấy một con tàu thật lớn từ xa tiến đến, mọi người như tìm lại được sự sống của mình. Nhưng rồi họ lại càng thất vọng khi nhìn thấy tên con tàu ấy là Lô-sơn Ma-ru, là một chiếc tàu chiến của Nhật. Lúc bấy giờ liên hệ ngoại giao cũng như quân sự giữa Trung Hoa và Nhật Bản không được tốt, nên tình cảm giữa 2 dân tộc Trung – Nhật rất tồi tệ. Hành khách trên tàu đều lo nghĩ rằng thật khó để người Nhật ra tay cứu giúp họ. Trong khi đó thì thân tàu từ từ chìm xuống lòng biển, cơn nguy khốn đã đến bước đường cùng, mọi người đã bó tay để chịu chết. Trong cơn cùng khốn đó họ chỉ còn biết đưa những cánh tay vô vọng lên vẫy gọi cầu cứu! Những tín hữu thì cầu nguyện thầm, xin Chúa cảm động lòng những con người của con tàu bên kia. Tống Thượng Tiết đứng ra dảm trách vai trò lãnh đạo, tay cầm một lá cờ màu đỏ vừa vẫy gọi vừa dùng tiếng Anh kêu gọi sự giúp đỡ. Chiếc Lô-sơ Ma-ru từ từ tiến lại gần, thủy thủ trên tàu đó ra giá trả cho họ 300 đồng thì họ sẽ giúp đỡ. Như vậy chứng tỏ họ cũng còn đôi chút lương tâm. Họ cho một chiếc xuồng nhỏ qua để vớt những người sắp chết chìm. Chiếc xuồng mỗi lần chỉ chở tối đa được 10 người. Hành khách trên tàu giành nhau đu dây thừng để xuống được chiếc xuồng cứu nạn. Có một nữ hành khách đánh rơi bầu bao nữ trang của mình trị giá 600 đồng, vì quá tiếc của nên đã nhảy theo bầu bao nữ trang của mình mà chết. Cũng có nhiều người đu dây xuống được nửa chừng nhưng khộng đủ sức nên đã buông tay rơi xuống biển mà chết. Cảnh huống hỗn loạn đó đã khiến mọi người kinh hoàng và run sợ.
Sau này, người ta tìm được trong di bút của Tống Thượng Tiết, ông đã ghi lại: “Con người sống y như đang nổi trôi trong biển tội lỗi, không ai có thể ỷ lại vào tài sức của mình, chẳng một ai có thể tự lực mà cứu mình thoát chết trong cảnh dập dồi đó. Nếu con người không chịu khước từ những hư vinh phù hoa của cuộc đời mà đi vào con tàu của Nô-ê đang mời gọi thì làm sao có thể đi đến bến bờ bên kia?”.
Khi mọi người còn sống đã lên được trên con tàu của người Nhật, họ nhìn qua con tàu Đông Cảng, hình như có một lực vô hình giữ cho chiếc Đông Cảng không chìm hẳn xuống lòng biển. Sau này chiếc Đông Cảng được kéo về bến, hành khách của chuyến đi ấy đã lấy lại được hành lý của mình. Tống Thượng Tiết cũng ở trong số những người may mắn ấy. Về đến quê Hưng Hóa, Mục sư Tống Học Liên chẳng những vui mừng vì đoàn tụ được với con sau một cơn nguy biến, nhưng cụ còn vui mừng hơn nữa vì nhận thấy đời sống Tống Thượng Tiết đã được thay đổi một cách diệu kỳ và quyền năng của Chúa Thánh Linh đầy dẫy trong sự giảng dạy Lời Chúa. Nhưng hai cha con chỉ được gặp nhau quá ngắn ngủi, vì Tống Thượng Tiết đã cam kết với Đoàn Truyền giáo Phúc âm Bê-tên là sẽ cùng với Đoàn lên truyền giáo miền Đông Bắc Trung Hoa.
CHƯƠNG 33
LÊN MIÊN ĐÔNG BẮC VỚI ĐOÀN
TRUYỀN GIÁO
PHÚC ÂM BÊ-TÊN MÙA THU 1931
Khi Tống Thượng Tiết về đến Thượng Hải thì những người khác trong Đoàn đã do Mục sư Kế Chí Văn hướng dẫn lên miền Đông Bắc rồi. Tống Thượng Tiết và Lâm Cảnh Khang nối gót theo sau. Trên đường đi Chúa cho Tống Thượng Tiết một khải tượng “một cây thập tự đang chờ trước mặt”. Tống Thượng Tiết đã ghi lại rằng: “Từ khi tôi thoát qua nạn đắm tàu thì Đức Thánh Linh, Đấng đã cảm động Phao-lô, cũng đã cảm động tôi, dạy cho tôi bài học “đừng lo lắng chi hết”. Dù sống hay chết thì Chúa Cứu Thế Giê-su cũng sẽ vinh hiển qua đời sống của tôi. Tôi không thể lo cho tính mạng của mình, cũng không thể xem trọng mạng sống của mình nữa. Chỉ mong đi trọn con đường của mình và hoàn thành những trách nhiệm đã nhận lãnh từ nơi Chúa Giê-su là bày tỏ Phúc âm về ân điển của Thượng Đế”.
Hai vị Tống, Lâm đến thành phố Đại Liên vào đúng dịp Đại hội 2 năm 1 kỳ của giáo phái Lutheran khai diễn ở thành Phượng Hoàng. Những tín hữu đến dự có các đại diện của miền Đông Bắc khoảng trên 200 người và cũng có những đại diện của nhiều giáo phái khác đến dự với tính cách quan sát. Riêng nhóm truyền giáo Phúc âm Bê-tên tạm trú trong một ngôi nhà cũ kỹ chờ cơ hội. Quả nhiên ban tổ chức dạt lời mời Tống Thượng Tiết ban phát sứ điệp. Tống Thượng Tiết đầy quyền năng trong khi giảng dạy Lời Chúa. Kết quả có 25 vị đại diện các Hội Thánh người Trung Hoa và 2 giáo sĩ Tây phương không sao có thể ngăn cản được sự thôi thúc của Chúa Thánh Linh, bất chấp mọi dư luận đã tự ý đi lên trước tòa giảng và quỳ gối xuống cầu nguyện lớn tiếng ăn năn xưng ra tất cả những tội lỗi của mình. Số giáo sĩ Tây phương còn lại thì có ý chống đối hành động đó nên họ đã ra lệnh những người được Chúa thăm viếng không được ồn ào. Nhưng Mục sư Kế Chí Văn đã khiển trách những hành động có tính cách phản đối ấy. Qua ngày Đại hội thứ hai về phía các giáo sĩ Tây phương đã đưa ra những lời thách thức và trực tiếp dọa nạt, nếu vẫn tiếp tục mời những diễn giả “vô lễ” ấy thì họ sẽ chấm dứt không trợ cấp tài chánh nữa! Những Mục sự Trung Hoa thuộc giáo phái Lutheran nghe như vậy thì sợ giáo hội của mình sẽ phải ngưng hoạt động vì không có phương tiện tài chánh, nên ban tổ chức Đại Hội Đồng Lutheran đã ra lệnh trục xuất những người trong Đoàn Truyền giáo Phúc âm Bê-tên ra khỏi hội đồng.
Qua sự kiện này, Tống Thượng Tiết cảm thấy thật đau lòng. Sau này, trong nhật ký, ông đã ghi: “Những người tín hữu Tin Lành của Trung Quốc ơi, tại sao cứ phải mãi nương tựa vào sự trợ giúp tiền bạc của người ngoại quốc? Cứ làm thân phận một con ký sinh trùng? Thật đáng thương, chúng ta phải chiêm ngưỡng và tin rằng Chúa là “Cha giàu có” , Ngài có tất cả để giúp chúng ta vững tâm mà tự truyền, tự dưỡng, tự trị và tự lập. Đã đến lúc chúng ta không nên nương nhờ vào người khác nữa”.
Trước khi Đoàn Truyền giáo Bê-tên giã từ Đại Hội Đồng của giáo phái Lutheran, họ đã cùng nhau hát: “Thập giá Chúa, thập giá Chúa, vinh hiển tôi muôn muôn đời, cho đến qua bên kia bờ rồi, ngày đêm an lạc thảnh thơi”. Trưa hôm ấy họ đã vẫy tay chào những cử tọa Đại Hội Đồng và ra đi. Khi Đoàn Truyền giáo ra ga xe lửa để đến Thẩm Dương, thì thấy tại đó đã có nhiều đại biểu từ Đại hội đã chực sẵn để tiễn đưa họ. Tuy mới quen nhau, nhưng tình cảm thật là đậm đà thắm thiết, họ không muốn chia tay nhau. Trong số ấy, có những người than thở cùng Tống Thượng Tiết rằng: “Hôm qua họ chỉ được đứng ngoài giáo đường, dựa vách để nghe giảng, nhưng trong lòng cảm động muốn ăn năn và tin nhận Chúa”. Quả thật đó là những lời đầy khích lệ cho Tống Thượng Tiết và phái Đoàn khi đang thất vọng.
Trước khi Đoàn Truyền giáo rời Đại Liên, những đại diện cho Giáo hội Trưởng lão Thẩm Dương yêu cầu Đoàn khai mạc Đại hội ở Thẩm Dương sớm hơn như đã định vài ngày. Thật ra thì cũng đã có một số các vị Mục sư, Truyền đạo đến đây để truyền giáo, lòng của người dân tại đây cũng đã được Chúa Thánh Linh thăm viếng, họ cũng đang khao khát Lời Chúa. Khi Đoàn Truyền giáo đến Thẩm Dương thì họp với những vị Mục sư, Truyền đạo thành lập một ban cầu nguyện phấn hưng. Họ đã cầu nguyện một cách thiết tha, có những ngày họp nhau cầu nguyện đến 8, 9 lần. Khẩn đảo xin Chúa mở cánh cửa truyền giáo tại Thẩm Dương. Cũng xin Chúa làm việc trong lòng những người dân tại đây và khiến cho vô số người tiếp nhận Chúa. Tại đây cánh cửa đã mở, Chúa đã nghe tiếng cầu xin khẩn đảo ấy: Có trên 800 người được ân sủng của Chúa. Sau khi tin nhận Chúa, họ đã nối gót nhau đến nơi trọ của Tống Thượng Tiết và của Đoàn để đàm đạo cá nhân. Trong số đó có 70, 80 người đặc biệt được Chúa thăm viếng. Họ đã thống hối, cầu nguyện ăn năn những tội lỗi của mình nên họ đã được hồng ân tha thứ, cũng được Chúa đặc biệt kêu gọi để được đào tạo gia nhập vào những đoàn truyền giáo. Ngoài ra Tống Thượng Tiết còn nhận được 279 bức thư làm chứng về kinh nghiệm được tái sanh.
Đoàn Truyền giáo của Chúa bị sỉ nhục và bị đuổi khỏi Phượng Hoàng, nhưng lại được khích lệ lớn tại Thẩm Dương. Phía sau sự khổ nhục của Thập tự giá là ngày phục sanh hiển vinh. Đó là một nguyên lý không bao giờ sai lệch.
Sáng ngày 18 tháng 9 Đoàn Truyền giáo rời khỏi Thẩm Dương thì chiều hôm đó đã xảy ra một biến cố lớn. Các sứ giả Trung Hoa gọi là “Thẩm Dương sư biến” hay còn gọi là “Cửu nhất bát sự biến” (Biến cố Thẩm Dương hay biến cố 18 tháng 9). Số là quân đội Quan Đông Quân của Nhật Bản chớp nhoáng tấn công và chiếm Thẩm Dương, dùng Thẩm Dương làm bàn đạp để đánh chiếm toàn vùng Đông Bắc. Biến cố này là chiếc ngòi nổ của 8 năm chiến tranh Trung – Nhật sau này. Khi Đoàn Truyền giáo đã đến Hắc Long Giang mới hay tai biến vừa xảy ra tại Thẩm Dương. Một mặt họ cám ơn sự dẫn dắt tuyệt diệu của Đức Chúa Trời. Ngài đã để cho Đoàn bị sỉ nhục và bị đuổi khỏi Phượng Hoàng nên mới tổ chức được đại hội phấn hưng tại Thẩm Dương bắt đầu sớm hơn dự định và chấm dứt cũng sớm hơn. Nếu không thì họ đã nằm gọn trong không gian và thời gian của chinh biến. Mặt khác Đoàn cũng cầu nguyện xin Chúa giữ gìn, ban phước cách đặc biệt cho những tín hữu mới, cũ tại Thẩm Dương và giao thác họ trong cánh tay toàn năng của Ngài.
Tại Hắc Long Giang có một Hội Thánh của giáo hội Giám lý ở trong một tình trạng thật đáng thương. Mục sư quản nhiệm của Hội Thánh đó không được nóng cháy lắm, nên tổng số tín hữu quá ít, chỉ đếm đủ trên đầu ngón tay! Khi Đoàn Truyền giáo đến và truyền giảng đêm đầu thì vị Mục sư “hâm hẩm” đó cúng mời chiếu lệ các thân hữu đến dự, khuyên họ nên tin nhận Chúa, từ bỏ tội lỗi, rượu chè, hút xách… Lời ông vừa mới nói ra khỏi miệng thì bao nhiêu chuyện phiền toái lớn xảy ra. Trưởng lão của Hội Thánh đó vốn là một kẻ nghiện thuốc, còn vị chấp sự là một tay buôn lậu muối. Hai vị này đã nổi giận, lấy cớ rằng quân đội Nhật sắp tấn công, không thuận tiện cho việc nhóm họp đông người và đuổi khéo Đoàn Truyền giáo nên đi nơi khác. Đây là lần thứ 2 Đoàn Truyền giáo của Chúa bị đuổi. Vì vậy Đoàn đã đến thành phố Harbin sớm hơn dự định 2 tuần. Những ngày đầu Đoàn chỉ truyền giảng tại một ngôi giáo đường nhỏ, nhưng sau đó Đoàn đã nhờ vị Mục sư quản nhiệm xin phép với Hội Liên Hiệp để được truyền giảng tại giảng đường lớn của họ ở cửa Tây thành phố. Giữa những tín hữu của Hội Liên Hiệp thì đã không có sự kiên hiệp, bất đồng ý kiến về nhiều vấn đề; Ngày Chúa nhật cũng phải chia ra làm 2 suất thờ phượng khác nhau giữa nhóm này với nhóm kia. Nhưng thật là may mắn, họ lại chịu cho phép Đoàn Truyền giáo hoạt động tự do. Trong sứ điệp của đêm bế mạc, Tống Thượng Tiết với bao nhiêu lời tâm huyết dạy dỗ về tình yêu thương, hiệp một… Nghe xong một số tín hữu tham dự đã bắt tay làm hòa với nhau trong tình thương và cởi mở.
Chắc chúng ta còn nhớ ông bà Giáo sĩ C.S.Damin mà chúng ta có nhắc đến ở chương 19. Ông bà được Giáo hội bổ nhiệm đến làm việc tại Harbin. Khi Đoàn Truyền giáo vừa đến, bà Damin đã sớm nhận ra 1 trong 5 người của Đoàn là bạn chí thân của họ, tiến sĩ Tống Thượng Tiết. Sau những ngày truyền giảng và những buổi thờ phượng phấn hưng đã qua, ông bà Damin đề nghị Đoàn Truyền giáo nên lưu lại Harbin ít ngày nữa, trước là để nghỉ ngơi dưỡng sức, thứ đến là mời Đoàn thăm Hội Thánh Giám lý của người Đại Hàn và giảng bồi linh cho họ. Đoàn Truyền giáo đồng ý nên dọn ra khỏi nhà trọ của hội Y.M.C.A và đến trọ tại tư thất của ông bà Damin. Tống Thượng Tiết và ông Lý Đạo Vinh ở ngoài phòng khách còn 3 vị còn lại tạm nghỉ ở thư phòng. Ông bà giáo sĩ này có tạm thời mướn tạm một người thợ may đang thất nghiệp để giúp việc Đoàn Truyền giáo. Ông bà Damin đã chu đáo chăm sóc họ từng bữa ăn cho đến áo quần, giày vớ không thiếu một món cần dùng nào. Nhưng điều khiến cho Tống Thượng Tiết cảm động hơn cả là tâm tình thương mến của bà Damin. Nhân viên của Đoàn Truyền giáo người nào cũng phải dậy từ lúc 4 giờ sáng để tĩnh nguyện, đọc Kinh Thánh và suốt ngày lo việc truyền giảng. Nhiều khi về đến nhà thì đã quá khuya và người nào cũng mệt nhoài. Lắm lúc chưa ngã lưng lên ghế thì họ đã ngủ rồi, chẳng buồn cởi giày vớ. Bà Damin phải đích thân đi cởi giày, vớ cho từng người và nhẹ nhàng đắp chăn ấm lên mình họ. Trước cử chỉ thân thiết đó, Tống Thượng Tiết nhớ lại một lời trong Thánh Kinh: “Này là thân thể Ta vì các con mà phó cho”.
Hội Thánh người Nga cũng mời Đoàn đến thăm và Tống Thượng Tiết cũng giảng bồi linh cho họ. Dân tộc Slau vốn giàu tình cảm nên nghe ông giảng chưa hết bài họ đã cảm động dầm dề nước mắt. Hội Thánh Đại Hàn mời Tống Thượng Tiết giảng bằng Anh ngữ và Giáo sĩ Damin thông dịch qua tiếng Đại Hàn. Về phương diện xúc cảm và nồng nhiệt người Đại Hàn không bằng người Nga nhưng về mặt khát khao Lời Chúa có lẽ không ai bằng họ. Có một chủ nhân của một hãng xưởng lớn, sau khi nghe truyền giảng đã tin nhận Chúa. Ông này xin Tống Thượng Tiết tổ chức cho một buổi truyền giảng lộ thiên cho hơn 1000 công nhân đang làm việc cho ông ta.
Các Hội Thánh tại Harbin vốn cũng có tình trạng chia rẽ, không ai thuận phục ai, nhưng sau khi được nghe những sứ điệp bồi linh do Tống Thượng Tiết thì họ đã thành lập những nhóm cầu nguyện tuần hoàn tại các giáo đường của nhau. Khi Đoàn Truyền giáo rời Harbin thì họ nhận được rất nhiều thư từ các tín hữu. Nhiều cho đến nỗi phải đựng trong bao đựng bột mì lớn. Họ đã cám ơn Đoàn và cảm tạ ơn Chúa, rất nhiều người hỏi những vấn đề tương quan đến giáo lý, có 75 lá thư làm chứng về quyền năng của Chúa.
Vấn đề tài chánh của Đoàn gặp khó khăn khi sắp rời Harbin. Để giảm bớt chi phí họ đã đồng ý một số ở lại Harbin chờ đợi, còn Tống Thượng Tiết cùng Lý Đạo Vinh đi lên miền Hô Lan và Tuy Hóa.
Tại Hô Lan có một trường thuộc hội Y.M.C.A. Có hiệu trưởng, 4 giáo viên cùng một số rất đông học sinh của trường quyết định tin nhận Chúa sau khi nghe Tống Thượng Tiết giảng và kêu gọi. Hai ông Tống và Lý cúng tổ chức truyền giảng tại các Hội Thánh người Nga. Như thường lệ ông cũng dùng đề tài “Năm cái bánh và hai con cá”, nhưng lần này có rất nhiều thân hữu đã chịu sự cảm động sâu xa. Họ đã mạnh dạn tiến lên tòa giảng tin nhận Cứu Chúa Giê-su sau bài giảng và lời kêu gọi. Có độ 50 người Nga tỏ ý muốn dâng mình hầu việc Chúa trong vòng người Nga thuộc 3 tỉnh của miền Đông Bắc. Có một người bị tà linh ám nên nên đã đốt Kinh Thánh đến 10 lần, nhưng khi Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện thì liền được chữa lành. Cũng có một người kia cùng một lúc bị 2 quỷ dữ nhập, một nhập bên trong và một cai quản bên ngoài. Chúng quấy rối người ấy dữ dội, nhưng khi Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện thì 2 quỷ dữ ấy đã ra khỏi. Lúc đó Tống Thượng Tiết mới nhận ra rằng, mình cũng có ân tứ đặt tay cầu nguyện đuổi quỷ như các sứ đồ ngày xưa.
Giáo hội Lutheran ở miền Bắc có 1 bệnh viện, 1 trường học và 1 nhà thờ, và một số nhà của các giáo sĩ ở sát nhau, tạo thành một khu riêng của Giáo hội. Trước kia họ tuyệt giao với nhiều Đoàn Truyền giáo, nhưng nay họ lại mời hai họ Tống, Lý đến truyền giảng trong “giáo khu” của họ trong vòng 3 ngày. Số người đến tham dự những buổi truyền giảng có chừng 200 người, phần đông là những học sinh trường Tam Dụ. Nhờ kinh nghiệm học được tại Phượng Hoàng, Tống Thượng Tiết giữ phong thái trầm tĩnh hơn. Khi hướng dẫn những bài thánh ca ông không vừa hát vừa vỗ tay, ông cũng không kêu gọi đồng thanh cầu nguyện (mỗi người tự do cầu nguyện lớn tiếng cùng một lúc). Lúc giảng dạy, ông chỉ đứng nguyên một chỗ sau bụ giảng, chứ không tự do đi lui đi tới, hay nhảy lên nhảy xuống bục giảng như thường làm. Vì vậy những giáo sĩ ngoại quốc chỉ ngấm ngầm chống đối chứ không có lý do gì để phản đối. Tống Thượng Tiết cũng biết dược trong vòng những giáo sĩ này cũng chia bè, lập phái, cũng có sự tranh cạnh giữa những nhân viên ngoại quốc và những cộng sự người Trung Hoa. Có một lần, sau khi giảng dạy, ông đã mời tất cả những các vị lãnh tụ cũng như những bác sĩ, y tá, giáo viên, Mục sư, Truyền đạo và các giáo sĩ đến trước bục giảng. Đây là lời mời gọi thật bất thường, nhưng được sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, mọi người đều thuận phục bước lên phía trước. Tống Thượng Tiết lớn tiếng hỏi hội chúng rằng: “Quí vị có thương yêu các bậc lãnh đạo cũng như những người phục vụ cho quí vị không?”. Hội chúng đồng thanh đáp: “Yêu!”. Ông hỏi tiếp: “Như vậy quí vị cầu nguyện cho họ như thế nào?”. Hội chúng đáp rằng: “Chỉ mong họ yêu thương lẫn nhau và cùng nhau hợp tác làm việc”. Tống Thượng Tiết bèn mời tất cả mọi người quỳ gồi cầu nguyện. Khi cuộc cầu nguyện đã đến độ nóng cháy, hầu như mọi người đều khóc, nhưng chưa có ai đủ can đảm đề xưng nhận tội lỗi của mình ra. Tống Thượng Tiết bèn cất tiếng hỏi những người đồng công Trung Hoa: “Các bạn có thù ghét ai không?”. Có vài người lên tiếng: “Tôi căm ghét những vị giáo sĩ”. Tống Thượng Tiết liền ra lệnh cho những người ấy: “Như vậy thì phải đến nói chuyện với các giáo sĩ đó và xin lỗi họ đi”. Họ tuân lệnh của ông và đến xin lỗi những vị giáo sĩ mà họ thù ghét xưa nay. Tống Thượng Tiết quay lại nói với các vị giáo sĩ ấy rằng: “Những người này hận thù các ông, như vậy các ông cũng phải có những tội cần phải xưng ra”. Các giáo sĩ bèn xưng tất cả những tội lỗi của mình trước hội chúng và ngọn lửa phấn hưng bùng cháy. Khi ngọn lửa Thánh Linh đã thiêu đốt tất cả những tội lỗi thì hận thù oán ghét biến thành thương yêu trìu mến. Buổi nhóm họp đã chấm dứt, còn rất nhiều người đến phòng của Tống Thượng Tiết để hiệp chung cầu nguyện. Thời gian của kỳ Đại hội Phấn hưng tại Huy Hóa chỉ có 3 ngày kể cả thời gian đi và về, nhưng những tín hữu hãy còn khao khát Lời Chúa, nên đồng ý là chưa chia tay vội. Trên 70 người họp nhau tổ chức một buổi họp mặt đưa tiễn và mời Tống Thượng Tiết chia sẻ Lời Chúa lúc 5 giờ 30 sáng. Sau đó họ đưa Đoàn Truyền giáo ra ga xe lửa để kịp chuyến xe 7 giờ 30. Người tiễn và người đi đều bịn rịn, chưa muốn chia tay. Tống Thượng Tiết từ trong cửa toa xe lửa, vói đầu ra nhắn lại cho khách tiễn đưa những câu Thánh Kinh quí báu thay cho những lời giã từ. Những tín hữu tại sân ga đưa tiễn, họ hát những bài Thánh ca, tiếng hát ngày càng lớn, khiến cho những nhân viên an ninh phải đến gần quan sát, tưởng đã xảy ra chuyện không hay.
Sáng hôm ấy có những người Nhật và người Nga đến ga xe lửa để đón những nhân vật quan trọng của chính phủ họ. Thấy quang cảnh này đều lấy làm lạ không hiểu ông Tống này là ai mà khiến cho nhiều người thương yêu và ngưỡng mộ đến như vậy?
Tống Thượng Tiết và Lý Đạo Vinh cấp tốc trở về Harbin. Phối hợp với 3 vị kia tổ chức 1 buổi bồi linh ngắn gọn, rồi rời khỏi đây sớm vì còn rất nhiều nơi khác đang chờ đón họ. Đoàn Truyền giáo dự định là sẽ trở lại Thượng Hải trước Lễ Giáng Sinh. Nếu cả Đoàn cùng đi đến nhiều nơi thì chắc chắn là không đủ thì giờ. Buộc lòng họ phải chia ra để đi cho kịp. Tống Thượng Tiết đến Trường Xuân, 4 vị kia đến những nơi khác như Triều Dương Trấn… và họ hẹn gặp nhau tại Doanh Khẩu. Lúc ấy trong Đoàn đã bắt đầu có những ý kiến mâu thuẫn. Dù chưa đến nỗi trầm trọng đến rạn nứt, nhưng những nọc độc của chia rẽ đã bắt đầu ngầm ngấm. Tại Trường Xuân, phong thái khi ban phát sứ điệp của Tống Thượng Tiết rất trầm tĩnh, ông cũng không kêu gọi hội chúng đồng loạt cầu nguyện vì vị Mục sư sở tại đã xin Tống Thượng Tiết đừng khơi động tình cảm của “quần chúng”. Nhưng Chúa Thánh Linh đã làm việc trong Đại hội. Mỗi lần Tống Thượng Tiết giảng xong đều có những người tự động đi lên phía trước cầu nguyện xưng tội. Một trong những người lên đó chính là vị Mục sư sở tại!
Khi Tống Thượng Tiết đến Chiết Lâm thì nơi này đã bị quân đội Nhật chiếm đóng. Những tín hữu người Đại Hàn, một số đã bị bắt giữ, đa số còn lại đã đào thoát đến chốn khác gây cho Giáo hội một tình cảnh hoang mang, kinh hoàng. Triết Lâm vốn có 2 Hội Thánh của Giáo hội Trưởng lão, mà một thì vui mừng đón tiếp Tống Thượng Tiết còn một thì chống đối kịch liệt! Mục sư quản nhiệm của Hội Thánh hoan nghênh Tống Thượng Tiết là diễn giả của sự phấn hưng.. Hội Thánh do ông này chăn giữ rất hưng thịnh, có khoảng trên 300 tín hữu. Họ đồng tâm với Tống Thượng Tiết cầu nguyện cùng cầu thay cho đồng bào chưa biết Chúa đang sống quanh vùng. Họ cũng cầu xin Chúa “bắt phục” lấy số đồng bào chưa tin này. Tại đây Tống Thượng Tiết học được 2 chữ “bắt phục”. Ông cũng học thêm được một điều là nếu muốn bắt phục thì phải trả một giá là cầu thay. Do sự cầu thay của hội chúng, Chúa thật đã bắt phục rất nhiều tội nhân trong vùng, kể cả một số tín hữu lâu năm trong Hội Thánh.
Đây là một vài trường hợp đã được Chúa “bắt phục”:
- Tại Hội Thánh Trưởng lão chống đối có một vị Mục sư kịch liệt đả phá Tống Thượng Tiết. Ông này đã không những không cho tín hữu của Hội Thánh ông đi nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng, mà chính ông cũng từ chối không chụp hình chung với Tống Thượng Tiết. Vào buổi giảng phục hưng cuối cùng, ông ta đã đến nghe và đã được Chúa Thánh Linh bắt phục. Ông ta đã đứng lên trước hôi chúng và thú nhận ông đã không dành thì giờ đọc Kinh Thánh và tĩnh nguyện với Chúa hơn 6 năm nay.
- Một vị bác sĩ họ Lâm, từ khi tin nhận Chúa cho đến nay chưa bao giờ quỳ gối cầu nguyện, một hôm trong vòng giải phẫu bỗng nhiên cánh tay ông trở nên trơ cứng, không sao cử động được. Ông liền quỳ gối cầu nguyện xin Chúa chữa lành, Chúa quả đã nghe lời cầu nguyện và chữa cho ông khỏi được bệnh “cứng tay”.
- Một tên anh chị, trước kia là một võ sĩ quyền anh, anh ta đã nhúng tay vào vụ giết một giáo sĩ vào năm Canh Tí. Sau khi thi hành tội ác ấy cánh tay của anh bị sưng lên, đau đớn và từ đó đến nay đã không khỏi được. Hôm đi nghe truyền giảng, sau bài giảng Tống Thượng Tiết đã hỏi hội chúng: “Chúa Giê-su ngày ấy có thể cứu tên cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa, thì ngày hôm nay có thể cứu quí vị chăng?”. Tên anh chị này đã mạnh dạn đưa tay lên xưng nhận niềm tin: “Có thể!”. Cánh tay của anh ta liền được chữa lành. Thấy phép lạ kỳ diệu như vậy, nhiều người đã tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su và qui vinh hiển về cho Ngài.
Những ngày truyền giảng ở Chiết Lâm có rất nhiều người tin nhận Chúa và xin chịu Thánh lễ báp-têm. Thông thường thì những tân tín hữu phải qua một giai đoạn “khảo sát đức tin”, nghĩa là phải có một thời gian để hiểu biết thêm về một số giáo lý căn bản. Nhưng tại đây Tống Thượng Tiết cảm thấy thật là cấp bách, hơn nữa ông cũng được thôi thúc bởi Lời Chúa dạy: “Ai tin và nhận phép báp-têm là chắc chắn được cứu”. Và lời của quan thái giám Ê-thi-ô-bi nói với Phi-líp: “Có gì ngăn trở tôi chịu phép báp-têm không?” (Công vụ 8:36b). Những câu Kinh Thánh khác cũng minh chứng rằng hễ với một lòng chân thật thì có thể nhận Thánh lễ báp-têm. Tống Thượng Tiết bèn thương lượng với Mục sư sở tại Tề Hướng Vinh. Rất may là Mục sư Tề cũng đồng quan điểm với ông, nên Tống Thượng Tiết được phép thực hiện lễ Thanh tẩy báp-têm cho hơn 200 tân tín hữu chưa qua “kỳ khảo sát đức tin”. Đây là lần đầu tiên Tống Thượng Tiết đã làm Thánh lễ báp-têm cho người khác nên đáng được ghi nhớ.
Trong những ngày ấy Tống Thượng Tiết chẳng những đã học được bài học “bắt phục” của Chúa Thánh Linh mà cũng học thêm được rằng phải nắm chắc lấy lời hứa của Chúa cho đến lúc lời cầu nguyện được nhậm.
Thời tiết lúc ấy đang vào mùa đông, lại ở miền Đông Bắc. Rét buốt thật là khắc nghiệt, Tống Thượng Tiết cầu nguyện xin Chúa cho một chiếc áo da chống rét trước khi tuyết rơi. Chúa đã nhậm lời, không bao lâu sau đó Ngài đã dùng một nữ tín hữu mang đến biếu cho Tống Thượng Tiết một chiếc áo bào bằng da thú thật tốt.
Rời Chiết Lâm, Tống Thượng Tiết theo đường Triều Dương để đến Doanh Khẩu. Khi ngang qua thị trấn Triều Dương, ông đã tận dụng thời gian để thực hiện một buổi truyền giảng. Những tín hữu tại đó nài xin cho được nhiều buổi truyền giảng hơn, nhưng ông chỉ có thể trả lời: “Nếu Chúa cho phép thì sau khi ở Doanh Khẩu về tôi sẽ trở lại thị trấn này!”.
Về đến Doanh Khẩu, Tống Thượng Tiết gặp lại những đoàn viên khác. Họ lại phân công, chia cho ông phần việc huấn luyện cho 80 học viên của Thánh Kinh học đường. Bài đầu tiên Tống Thượng Tiết dạy về sự tái sanh, nhiều học viên đã khóc lóc xưng tội và nhận được ơn tái sanh.
Ông hiệu trưởng cảm thấy thật vui thỏa và nói rằng: “Các học viên đều đã nhận được ơn cứu rỗi”. Nhưng Tống Thượng Tiết lại lý luận rằng: “Vì ngài hiệu trưởng đã hiểu lầm về lẽ đạo được xưng công bình bởi đức tin mà nghĩ rằng trong lòng tin là đủ, không cần phải hối cãi và sửa đổi”. Các sinh viên thấy giáo sư và hiệu trưởng mình tranh luận về thần đạo, không một ai dám đóng góp ý kiến. Có nhiều người trong vòng họ đã để thì giờ cầu nguyện, đến nửa đêm thì Chúa bày tỏ cho họ qua một khải thị. Sáng hôm sau họ vội vàng đến gặp Tống Thượng Tiết và nói cho ông biết về nội dung của khải thị mà họ nhận được. Một lần nữa Tống Thượng Tiết học thêm một bài về bí quyết chiến trận trong Chúa Thánh Linh: Những cuộc truyền giảng phải được đặt trên nền tảng của sự cầu nguyện trong tâm linh. Nếu từ cõi tâm linh không kinh nghiệm được sự chiến thắng thì việc làm của truyền giảng không mang lại lợi ích thiết thực nào. Những công việc tại Doanh Khẩu tuy chỉ trong những phạm vi nhỏ hẹp, nhưng đi thẳng vào chiều sâu tâm linh nên giữ được kết quả lâu bền.
Về đến Triều Dương, Chúa lại khải thị cho Tống Thượng Tiết một sứ điệp mới: “Mở quan tài ra”. Đó là một trong những sứ điệp nổi tiếng mà Chúa đã cho ông. Đại ý là nếu chỉ nghe giảng Lời Chúa với thái độ “lỗ tai này lọt qua lỗ tai kia” thì thật là vô ích. Khi nghe sứ điệp của Chúa là mở toang cả chiếc quan tài của thâm tâm mình ra. Phải lôi ra hết những ý tưởng chết tận đáy lòng mình. Nhiều vị Mục sư mới mở quan tài ra là nhận tội cách công khai. Tống Thượng Tiết đã đặt tay cầu nguyện cho họ và Chúa Thánh Linh liền tràn đầy vào lòng, đã giốc đổ ra hết những tội lỗi xấu xa và trở nên thanh sạch. Ngài cũng ban cho họ những ân tứ thiêng liêng như ân tứ chữa bệnh, ân tứ đuổi quỉ. Họ là những nhân chứng đắc lực và tốt dẹp khi trở về những công trường thuộc linh của địa phương họ.
Các việc kỳ diệu Chúa làm tại Triều Dương đã kết thúc cho vòng truyền giáo Đông Bắc Trung Hoa. Những việc xảy ra ở Triều Dương là những việc do một năng lực phi thường. Đó là tột đỉnh quyền năng của vòng truyền giáo Đông Bắc.
Lúc ấy những quân nhân trong quân đội tin nhận Chúa rất nhiều, nên họ đã dùng xe nhà binh để đưa Tống Thượng Tiết đến một nơi gọi là Đại Thạch Kiều, tuy chỉ lưu lại nơi đây một thời gian ngắn, nhưng được Chúa cho một khải thị thật rõ ràng: “Lần trước con lên miền Bắc là lãnh nhiệm vụ của Giáo hội để nghiên cứu về Cơ-đốc giáo dục, nhưng con đã không thi hành nhiệm mạng đó, đáng lý ra con phải hoàn lại cho Giáo hội 70 đồng tiền lộ phí. Bấy giờ chính con phải mở quan tài mình ra, nhiên hậu mới có thể kêu gọi người khác mở quan tài của họ”. Tống Thượng Tiết bèn tuân phục làm theo, ăn năn tội cùng Chúa, và ông liền nhận được sức lực mới và lòng được sự bình an. Chân lý “Vác thập giá mình sau đó sẽ nhận được sự vinh hiển” là câu kết luận cho vòng truyền giáo miền Đông Bắc. Trong vòng truyền giáo này, Đoàn đã đem về hơn 3.000 người cầu nguyện tiếp nhận Chúa, đây là những kết quả dời đời chứ không phải chỉ là những bông hoa xinh đẹp sớm nở tối tàn.
Tống Thượng Tiết rời Triều Dương băng qua Chiết Lâm, Lưu Ninh và Doanh Khẩu. Ông được tận mắt nhìn thấy những đứa con sinh ra bằng Chúa Thánh Linh thì lòng tràn ngập sự vui mừng và an ủi. Khi Tống Thượng Tiết đến vùng Đông Bắc, lịch sử Trung Quốc đi đến một khúc quanh quan trọng và cũng là lúc đột kiến của thế lực quốc tế. Trong các tác phẩm của Tống Thượng Tiết, người ta chỉ có thể tìm thấy chỉ đôi ba dòng nói về biến cố lịch sử Thế chiến II năm 1918 mà thôi. Từ đó chúng ta có thể suy ra, người đầy tớ trung kiên của Chúa chỉ lấy việc của Nước Trời làm quan trọng, còn những việc trên đời này như những biến cố về chính trị và quân sự thì Tống Thượng Tiết hoàn toàn giao thác cho Đấng Chủ Tể của muôn loài vạn vật, Đấng cai trị vạn xứ vạn dân.
CHƯƠNG 34
CÔNG VIỆC TẠI SƠN ĐÔNG VÀ THƯỢNG HẢI
(CUỐI 1931 VÀ ĐẦU 1932)
I. SƠN ĐÔNG
Khi công tác tại Đông Bắc kết thúc, những đoàn viên của Đoàn Truyền giáo Bê-tên đều vội vã trở về Thượng Hải. Sau khi nghỉ ngơi một thời gian ngắn thì họ nhận lời mời của Hội Thánh Báp-tít đến Hoàng Huyện thuộc Sơn Đông. Nơi đây là giáo khu chính của Giáo hội Báp-tít, có Thần học viện, bệnh viện, trường nam và nữ trung học… Những buổi sinh hoạt thờ phượng rất đông đúc và sinh động, chỉ nội học sinh đã trên 5, 6 trăm người. Điều đáng tiếc là những thành phần học sinh, sinh viên thường quá coi trọng kiến thức và tự cao là mình thuộc vào hàng ngũ trí thức, nên lòng họ cứng cỏi và đầy hồ nghi, đố kỵ. Tống Thượng Tiết khẩn đảo cầu nguyện và ngưỡng trông chính Đức Thánh Linh hành động. Chúa đã trả lời cho sự cầu nguyện của ông và ban cho một cơn phấn hưng thật lớn. Cùng lúc ấy tác phẩm của Tống Thượng Tiết viết riêng về chương 12 của sách Phúc âm Mác vừa xuất bản, cuốn sách này được giới thiệu trong giờ thờ phượng và truyền giảng nên sau đó đã được bán sạch trong chốc lát. Những giáo sĩ Tây phương tại địa phương đó cũng đồng tâm chí với ông và họ cũng là người đầy dẫy Chúa Thánh Linh nên đã nhận toàn bộ trách nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ và chăm sóc những con đỏ mới sinh trong Chúa Cứu Thế Giê-su.
Chiến dịch tại Hoàng Huyện kéo dài 2 ngày, cũng có nghĩa là chiến dịch truyền giáo tại Bình Huyện phải hoãn lại 2 ngày. Nhưng sự đợi chờ của các tín hữu tại Bình Huyện không phải là vô ích, họ đã tận dụng thời gian 2 ngày chờ đợi Tống Thượng Tiết để hết lòng cầu nguyện cho cho chiến dịch phấn hưng sắp tới. Chúa Thánh Linh thật sự đã làm việc để mở cửa cho công việc Chúa. Rất nhiều tín hữu trong những buổi cầu nguyện ban đêm đã thống hối ăn năn những lỗi lầm, chuẩn bị tấm lòng trống không. Do đó mới ngày đầu khai mạc đại hội phấn hưng, Chúa Thánh Linh đã giáng cho một cơn mưa thật dồi dào. Mục sư Paul Yen (đang phục vụ Chúa tại Bình Độ) khuyến khích Tống Thượng Tiết xức dầu cầu nguyện cho người bệnh, nhưng ông nhất định khước từ. Mục sư Paul Yen đã trách ông và lý luận rằng: “Thánh Kinh chẳng đã nói đến và cũng đã minh chứng cách cụ thể việc chữa bệnh, tại sao ông không tin?”. Mục sư Paul Yen đã dùng mọi biện pháp ép nài cho đến khi ông xức dầu cầu nguyện cho bệnh nhân. Để chiều lòng Mục sư, ông đã quỳ xuống trước mặt Chúa, xức dầu trên trán cho từng bệnh nhân và cầu nguyện: “Nhân danh Chúa Giê-su chữa lành cho ngươi”. Không dám mở mắt ra, ông chỉ hỏi: “Có người nào được lành bệnh chưa?”. Mục sư Paul Yen lên tiếng: “Có!”. Trong số những người được Chúa chữa lành có một bà tên là La Trức Phong bị bệnh tê liệt cả thân mình đã hơn 17, 18 năm. Tức thì, bà này vui mừng không xiết kể và đến nơi nào cũng làm chứng về quyền năng của Chúa. Ba năm sau, chồng của bà (vốn là một giáo sư) cũng bỏ cả việc dạy học. Cả hai ông bà rất biết ơn Chúa đi ra nơi này nơi kia để ca ngợi Chúa. Ngọn lửa phấn hưng đã nhóm lên ở bình độ và đã cháy lan tràn khắp cả tỉnh Sơn Đông. Từ thành phố Bình Độ chuyển sang thành phố Tế Nam, là nơi quen thuộc của Tống Thượng Tiết, cảnh trí đã đổi thay khác hơn ngày xưa rất nhiều. Sau giờ thờ phượng, đầu tiên nhiều người đã được báp-têm bằng Thánh Linh, hoặc nói tiếng lạ hay ca hát những bài hát thiêng liêng tự phát… Nhiều người đã vội kết luận rằng ông cũng thuộc nhóm Linh Ân (Charismatic). Thật ra Tống Thượng Tiết không đặt nặng vấn đề này. Chúa đã dạy cho ông hiểu rằng những hình thức đó chỉ là những biểu hiện bên ngoài mà thôi.
Ba ngày ngắn ngủi tại Tế Nam là một dịp tiện quý báu. Tống Thượng Tiết ngụ tại gia đình của Bác sĩ Tawnting Steer, ông đã gặp được rất nhiều sinh viên của đại học Tề Lỗ và cũng đã hướng dẫn được khoảng 50 người tin nhận Chúa Cứu Thế.
Đại hội tại Tế Nam kết thúc, Đoàn Truyền giáo định trở lại Thượng Hải nhưng đường xe lửa bị gián đoạn cho nên Đoàn phải dùng đường thủy mà trở về. Đó cũng là dịp may để Tống Thượng Tiết có cơ hội trở lại Thanh Đảo làm công tác bồi linh lần thứ nhì. Nơi đây ông thận trọng hơn về đường lối giảng dạy của mình để hội chúng đừng hiểu lầm mình cũng chủ trương như nhóm Charismatic, ông cũng đã cảnh cáo hội chúng đừng quá coi trọng những biểu hiện bên ngoài nhưng phải đi con đường yêu thương.
II. THƯỢNG HẢI
Buổi nhóm họp thờ phượng đầu tiên tại Thượng Hải nhằm vào ngày Tết Nguyên đán 1932. Địa điểm thờ phượng là Thánh đường Cảnh Lâm. Hôm ấy Tống Thượng Tiết đã dùng đề tài “Đừng ham mê thế tục để có thể trở thành như vợ Lót”. Ngày thứ nhất của đại hội số người đến tham dự đã rất đông đảo. Theo dự định thì đại hội tại đây chỉ kéo dài trong vòng 3 ngày, nhưng vì nhu cầu thiết thực nên đã kéo dài thêm 3 ngày, rồi sau đó lại phải gia hạn thêm 4 ngày nữa. Ngày cuối cùng người đến tham dự đông không ngờ được. Nhiều tín hữu cũng đến để được nghe truyền giảng khiến không còn một chỗ chen chân.
Sau kỳ Đại hội ấy, các Hội Thánh tại Thượng Hải đều được sự thăm viếng của Chúa Thánh Linh:
- Trong một cơ quan nọ tại Thượng Hải có một cán bộ vốn là một tín hữu nhưng có đời sống đạo đức giả và đã nhiều lần thâm thủng công quỹ. Sau khi nghe sứ điệp của Chúa qua Tống Thượng Tiết, trong lòng thấy bất an. Chúa Thánh Linh đã bắt phục ông ta thú nhận tất cả mọi tội lỗi, và ông ta cũng đã viết ra tất cả những lỗi lầm đã phạm tội và tuyên đọc công khai trước hội chúng. Sau đó ông được Chúa dùng để xuống Sơn Đông làm sứ gia phấn hưng cho Ngài.
- Cũng có một người đàn bà sau khi nghe Phúc âm và tin nhận Chúa Giê-su. Bà bị chồng bắt bớ, đánh đập rất tàn nhẫn. Mỗi khi bị chồng đánh đập bà đều quỳ xuống mà cầu nguyện: “Chúa ôi! Xin Chúa cứu chồng con vì chồng con không biết!”. Người chồng nghe vợ cầu xin như vậy thì cảm động đã tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su và không còn đánh đập vợ nữa. Bà ấy vốn là một giáo viên, nhưng vì ngày trước đi học không nhận được chứng chỉ nên bây giờ không thể ghi danh để tiếp tục hành nghề. Nhiều người khuyên bà nên làm một văn bằng giả để có thể tiếp tục nghề dạy học nhưng bà đã tin Chúa. Bà dứt khoát từ chối việc làm thiếu ngay thẳng đó. Bà quyết định bỏ ý định tiếp tục đi dạy học để dâng mình hầu việc Chúa xuống các làng mạc, truyền giảng Phúc âm cho những người chưa biết Chúa. Bà đã được Ngài trọng dụng.
- Tại Thượng Hải cũng có một nữ sinh vốn là một tín hữu thuộc Hội Thánh Anglican Episcopal. Cô đã tốt nghiệp trường Saint Mary, lại kết hôn với một thanh niên giàu có nhưng chưa tin nhận Chúa. Cô này đã bắt ép vị hôn phu phải theo nghi lễ giáo hội là làm lễ hôn phối trong thánh đường. Cô cũng chiều ý, nhưng sau khi đã thành gia thất, người chồng đã quyết liệt chống đối, không cho phép vợ đến giáo đường để thờ phượng Chúa, nếu không ông ta sẽ cưới vợ bé. Vì quá sợ cảnh chồng chung nên cô không còn dám bước chân đến ngưỡng cửa giáo đường. Vốn là một thương gia làm ăn buôn bán tận vùng Mông Cổ, công việc rất thịnh vượng nên ông chồng này đã lén lút cưới nhiều vợ bé. Người chị em con cái của Chúa này, quá khổ đau khi biết tin về chồng mình như vậy, nên đã dùng nha phiến để giải sầu. Cô lại sinh được một cháu gái rất kháu khỉnh và thông minh, đứa bé này là nguồn an ủi cho cô, nhưng khi lên 9 thì bỗng bị bệnh mà qua đời. Đã buồn lại buồn thêm, người đàn bà bất hạnh ấy đã trở lại tìm đến Chúa. Bà đã nhờ Tống Thượng Tiết cầu nguyện cho bà, và chính bà cũng đã thống hối cầu nguyện ăn năn trước mặt Chúa.
Thời gian ấy là lúc Tống Thượng Tiết đang phụ trách chức vụ chủ bút cho tạp chí “Thánh Khiết Chỉ Nam”, xuất bản 1 năm 10 kỳ, có một vài vị phụ tá biên tập cho ông. Sau kỳ Đại hội phấn hưng Cảnh Lâm chấm dứt và trước khi cuộc chiến ngày 8 tháng 12 bùng nổ, ban biên tập đã vội vàng chuẩn bị bài vở cho 1 năm sau. Do đó tờ báo xuất bản không bị ảnh hưởng trong những chương trình truyền giáo tại Hoa Nam, và đã xuất bản định kỳ. Chính Tống Thượng Tiết trong nửa năm hoạt động tại Hoa Nam cũng không cần phải để tâm nhiều cho tạp chí nữa.
Thành phố Thượng Hải đã trở thành chiến địa. Nhưng nhà lãnh đạo của Hội Thánh Bê-tên thấy tình hình quá căng thẳng thì đã quyết định di chuyển tất cả những cơ sở của Giáo hội như trường học, cô nhi viện, bệnh viện đến Tô Giới. Tống Thượng Tiết cũng như những bác sĩ thuộc bệnh viện Bê-tên đã tổ chức những công cuộc truyền giáo và chữa bệnh cho nhân dân đang tị nạn chiến tranh.
Trước tình hình căng thẳng như vậy thì những lớp học Thánh Kinh ngắn hạn dự định tổ chức vào tháng 2, bắt buộc phải đình hoãn lại. Nhiều người còn khuyên Tống Thượng Tiết nên tản cư khỏi Thượng Hải. Nhưng chính lúc ấy có 8 vị đại biểu không quản ngại đường xá xa xôi, đã từ Đông Bắc đến để hợp tác với Tống Thượng Tiết hầu việc Chúa. Vì nghĩ đến họ nên chẳng những đã không bỏ Thượng Hải ra đi, mà ông còn ở lại với họ tại phía Nam thành phố, cùng nhau lo giữ gìn những cơ sở và công việc Chúa. Họ khai giảng lớp Thánh Kinh đúng vào ngày 8 tháng 12 là ngày Thượng Hải bị tấn công. Ông cùng 8 vị đại biểu ấy hàng ngày dùng lời cầu nguyện làm hậu thuẫn cho cuộc sống. Họ sống với nhau những ngày thật gần gũi, thân mật trong sự tương giao của Chúa Thánh Linh. Có những tin tức cho họ biết là không quân Nhật sẽ oanh tạc phía Nam thành phố trong 3 ngày tới, nhưng đến hôm ấy thì mây đen ùn ùn kéo đến phủ kín cả bầu trời, cho nên không quân Nhật không thể thực hiện phi vụ phía Nam thành phố như lời đồn đoán. Tuy nhiên những cuộc giao tranh trên đất liền thì ngày càng khốc liệt, tiếng súng nhỏ nổ lên khắp chốn, tiếng đại bác vang rền liên hồi rung chuyển cả thành phố. Dân cư ai nấy đều kinh hoàng vì tiếng súng nổ và đạn rít ngang đầu. Duy chỉ có nhóm người của Tống Thượng Tiết sau khi đã quỳ gối cầu nguyện thì nghe rõ tiếng Chúa phán dạy: “Đừng kinh hoàng về chuyện đang xảy ra vì bắt buộc phải có như vậy”. Dưới bầu không khí đầy đe dọa, trong 32 ngày họ đã học được 32 chương Kinh Thánh. Đó quả là môn “Thần học thực nghiệm trong hoạn nạn”, và cũng là một môn học đáng để đi vào kỉ niệm quý báu!
CHƯƠNG 35
HÀNH TRÌNH XUỐNG HOA NAM (1932)
Hiệp định ngưng bắn được ký vào ngày 2 tháng 3 năm 1932 tại Thượng Hải. Cuộc chiến tranh cục bộ coi như kết thúc, Đoàn Truyền giáo tuần hoàn Bê-tên, cũng trong ngày ấy, xuống tàu qua Hồng Kông. Khi tàu cập bến thành phố Cao Lun, cơ quan y tế Hồng Kông coi thành phố Thượng Hải như đang ở trong tình trạng bị dịch đậu mùa nên ra lệnh cho chiếc tàu của họ đi vào trạm kiểm soát để cách ly khỏi dân chúng và kiểm soát lại tình trạng bệnh tật. Các tín hữu thuộc giáo phái Tangeri ra bến đón nhưng chờ mãi không thấy tàu cập bến, họ thất vọng đi về. Ngày hôm sau họ mướn một chiếc thuyền nhỏ chèo đến tận trạm kiểm soát bệnh dịch để thăm và hát những bài thành ca chào mừng Đoàn Truyền giáo, nhưng họ không được đến gần để nói chuyện. Qua ngày thứ 3, nhằm vào ngày Chúa nhật 6 tháng 3, năm người của Đoàn, trong đó có Tống Thượng Tiết được phép lên bờ. Họ liền đến nhà thờ đề tổ chức truyền giảng, số thân hữu hôm ấy lên đến cả ngàn người, trong khi nhà thờ chỉ có 500 chỗ ngồi. Thật là một buổi truyền giảng chưa bao giờ có. Tống Thượng Tiết là người Hưng Hóa nên nói tiếng Quan Thoại, dân Hồng Kông ít người nghe hiểu. Vùng đất này là thuộc địa lâu đời của Anh, nên Anh ngũ rất thông dụng ở đây, vì vậy ông đã giảng bằng tiếng Anh và Lý Đạo Vinh đã phiên dịch ra tiếng Quản Đông. Người giảng và người dịch thật nhịp nhàng ăn ý, không một chút ngập ngừng. Bài giảng vì song ngữ nên kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ. Từ đó mỗi ngày Đoàn Truyền giáo giảng 3 bài theo lối song ngữ như vậy và liên tục trong 6 ngày. Cũng có người trong Đoàn bị đau ốm, bị tắt tiếng, nhưng Chúa gìn giữ nên cuộc truyền giáo không bị ngưng trệ. Thính giả gồm đủ mọi thành phần xã hội: giàu nghèo, quyền quí, đê hèn , trẻ già, có những người ăn mặc thật sang trọng, cũng có những kẻ rách rưới, nhiều người trí thức cùng lắm kẻ dốt nát không biết đọc biết viết! Có những người đến từ hải đảo Trường Châu, phải vượt hàng chục dặm đường biển bằng thuyền máy. Nhiều tín hữu thuộc giáo phái khác nhau, họ chưa bao giờ đến một nhà thờ của giáo phái khác đề chung thờ phượng. Đây là dịp họ gặp gỡ nhau và tất cả như đều nhận được linh ân. Trong số họ đã có nhiều người được kêu gọi và có kết quả thật nhiều cho Chúa sau này. Phần lớn những người đến tham dự truyền giảng, truy xét lại đời sống tâm linh, quá trình tái sanh và trưởng thành đức tin đều thấy rằng những sứ điệp của Tống Thượng Tiết đã giúp đỡ họ rất nhiều. Trong chiến dịch truyền giảng này cũng có chừng 50 bệnh nhân đã mạnh dạn đến trước tòa giảng xin được đặt tay cầu nguyện. Đoàn Truyền giáo mở một buổi thờ phượng đặc biệt cho họ. Tống Thượng Tiết đã dùng Lời Chúa giảng dạy cho họ, giảng xong xin họ xưng hết tội lỗi của mình, bằng đức tin xin Chúa Giê-su tha thứ tội lỗi và xin Ngài chữa bệnh. Sau cùng ông và Kế Chí Văn đặt tay cầu nguyện cho từng người một. Trong buổi thờ phượng đặc biệt hôm ấy đã có nhiều người đứng dậy làm chứng là họ đã được tha tội, linh hồn được cứu và bệnh tật được chữa lành. Trong số đó cũng có những giáo sĩ người ngoại quốc. Công việc Chúa làm tại Hồng Kông và Cao Lun không phải chỉ qua một mình Tống Thượng Tiết mà với nhiều người khác. Về sau người ta đọc được trong hồi ký của ông như sau: “Vì nhiều cộng sự viên của Đoàn bị ốm đau nên phần lớn công việc tôi (Tống Thượng Tiết) phải đảm trách. Kinh nghiệm đã cho tôi biết là trong một cộng đồng Hội Thánh thế nào cũng có những phần tử giả hình. Trong hàng ngũ những người lãnh đạo thế nào cũng không hoàn toàn đồng tâm nhất trí và yêu thương nhau. Đoàn Truyền giáo của chúng tôi cũng vậy. Trong thâm tâm của mỗi người đều có cái tôi xưa cũ luôn luôn muốn phản kháng, nổi loạn. Cái tôi của mỗi người chưa chết hẳn thì cũng khó hợp tác với nhau”.
Ngày 12 tháng 3, Đoàn Truyền giáo đến Quảng Châu, trước tiên họ tổ chức truyền giảng tại Hội Thánh “Thánh Khiết” thuộc vùng Sông Nam. Như danh xưng của Hội, đa số tín hữu của họ đặt nặng vấn đề thánh sạch và họ tự coi mình là thánh khiết. Do đó những người khác rất e ngại, không ai dám gần gũi với họ, nên 2 buổi truyền giảng đầu số người đến dự thật thưa thớt. Tống Thượng Tiết vốn là người coi trọng sự thánh khiết nhưng thấy tình trạng Hội Thánh này như vậy nên đã có lời phê bình rằng: “Nếu sự thánh khiết khiến con người kiêu căng thì thật là vô ích”. Đoàn Truyền giáo vội vàng tổ chức cấp tốc những buổi cầu nguyện đặc biệt cho tình trạng của Hội Thánh. Qua ngày thứ 3 thì số người đến tham dự tăng lên gấp bội. Lời giảng của ông hôm ấy cũng đầy quyền năng, nhiều tín đồ Trung Quốc cũng như ngoại quốc đứng lên cầu nguyện ăn năn tội lỗi.
Ban ngày Đoàn Truyền giáo hoạt động tại Sông Nam, ban đêm Đoàn đã vượt sông qua bên kia là Quảng Châu để truyền giảng tại Hội Thánh Giám lý. Tín hữu của Hội Thánh Khiết cũng gởi người theo Đoàn để phụ giúp trong ban hát. Chúa Thánh Linh đã làm việc mạnh mẽ nên số người tin nhận Chúa lên đến 2, 3 trăm. Những tấm lòng nóng cháy đã thôi thúc họ ngày hôm sau qua tham dự cùng với Đoàn cũng như giúp đỡ Đoàn trong buổi truyền giảng tại Sông Nam. Trong số họ có những người về sau này trở thành những nhà truyền giáo trung kiên cho Chúa Cứu Thế.
Có một gia đình kia, người mẹ đã tin nhận Chúa nhưng người con trai là một kẻ vô thần. Anh ta đã đi Hoa Kỳ du học đến 3 lần. Mỗi khi nghe mẹ cầu nguyện, anh ta đem lòng căm thù đến nỗi muốn giết mẹ đi mới hả lòng. Một hôm anh ta được bạn mời đến tham dự một buổi truyền giảng của Tống Thượng Tiết. Anh ta nhận lời với thái độ kiêu căng: “Ừ thì đi, đến xem ông Tống múa may, nhảy lên nhả xuống trên sân khấu cũng vui”. Sau khi nghe giảng, anh ta đã được Đức Thánh Linh bắt phục. Anh đã quỳ gối tại chỗ khóc lóc xưng nhận tội lỗi của mình và cũng đến với mẹ, giọng nói cảm động run run, tạ tội cùng mẹ và xin bà tha thứ. Người mẹ vô cùng sung sướng hát lên những lời ca tụng Chúa vì Ngài đã nhậm lời cầu nguyện khản đảo đầy nước mắt của bà.
Từ Quảng Châu, Đoàn Truyền giáo ngược dòng Châu Giang đến thành phố Ngô Châu thuộc tỉnh Quảng Tây. Tại đây có 2 Hội Thánh thuộc giáo phái Báp-tít và Phúc âm Liên Hiệp, cộng chung có trên 7, 8 trăm tín hữu. Về phương diện hình thức thì Hội Thánh Báp-tít có cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn và có phần phát triển mạnh hơn, còn Hội Thánh Phúc âm Liên Hiệp thì có truyền thống chủ trương tín ngưỡng thuần chất. Tổ chức này có Thánh Kinh học viện. Trong viện có sinh viên Thạch Tân Ngã, chàng ta đã tham dự trại dưỡng linh mùa hè năm 1931, nên đã biết nhiều về Tống Thượng Tiết nên chàng ca ngợi cũng như Đoàn Truyền giáo do ông chủ trương với bạn bè cùng trường. Qua buổi truyền giảng đầu tiên vào ngày 27 tháng 3 thì các sinh viên đã rất thất vọng và Thạch Tân Ngã đã trở nên mục tiêu chế nhạo của họ. Nhưng đến ngày hôm sau thì tình hình đã xoay chuyển ngược hẳn lại. Lời giảng của Tống Thượng Tiết đầy thần quyền và Đức Thánh Linh đã làm việc cách diệu kỳ, từ giáo sư đến học viên đều chịu sự cảm động. Người đầu tiên đi lên trước bục giảng là ông viện trưởng, rồi lần lượt các giáo sư cũng như sinh viên và các tín hữu. Tất cả đều quỳ xuống cầu nguyện khóc lóc xưng hết những tội lỗi của mình. Sau đó, viện tổ chức những buổi thờ phượng bồi linh liên tục trong 10 ngày. Qua những ngày bồi linh này, số sinh viên được tái sanh nhận được báp-tem bằng Thánh Linh hoặc nhận lãnh được ân tứ Đức Thánh Linh rất đông. Ngọn lửa phấn hưng đã bùng cháy tại thành phố Ngô Châu. Rất đông tín hữu trong thành phố đã cầu nguyện thâu đêm. Một chị em trong nhóm cầu nguyện đã được Chúa Thánh Linh bắt phục nên sau buổi cầu nguyện đã mang ra một chiếc lắc vàng bà ta đã đánh cắp cách đó đã 23 năm! Bà đem bán chiếc lắc vàng được 300 đồng. Bà đã dâng hết cho quỹ truyền giáo, vì không thể biết khổ chủ của chiếc lắc là ai.
Một đêm kia, trong giấc ngủ, Tống Thượng Tiết cảm tác một lời ca: “Khi tôi lìa xa Chúa, không làm được việc chi, bị quăng ra ngoài, bị lửa thiêu cháy, khi lìa xa Chúa không làm được việc chi…” và cứ ngâm nga hát cho đến sáng. Thức giấc trong xúc cảm, Tống Thượng Tiết khóc lóc dầm dề với Chúa. Đức Thánh Linh mở trí cho ông hiểu ra ý nghĩa của chữ “Ngô” trong tên thành phố Ngô Châu mà ông đang ở. Ngô là ngã, là cái tôi; Châu là khúc gỗ. Cái ngã phải được đóng đinh trên cây gỗ. Ngày nào cũng đối phó với cái ngã của mình, nếu cái ngã xưa cũ trong ta chết đi một vẹn thì mới có được một cuộc sống yêu thương và cũng chỉ có thế Chúa mới có thể hướng dẫn chúng ta đi vào con đường yêu thương. Lìa khỏi Chúa thì chẳng thể làm được việc gì. Nếu không bởi tình yêu thương mà làm thì những công việc ấy cũng chỉ là hình thức suông vô giá trị.
Tại thành phố Quý Huyện có 2 ông bà giáo sĩ Tây phương đã cố gắng thành lập một hội gọi là “Tín Yêu”, cũng bởi tình yêu thương mà tổ chức một viện để nuôi dưỡng các em bé gái bị mù. Niềm tin của ông bà thật vững vàng, biết quên mình để yêu người, bỏ tất cả ham muốn vật chất để một lòng theo Chúa. Có thể gọi họ là những người “hiền lành và trung tín”. Thành viên của hội “Tín Yêu” không đông lắm, nếu kể cả các em bé bị mù thì hội có khoảng chừng 100 hội viên. Những em bé mù này, những người chịu ơn của Cơ-đốc giáo, tin Chúa nhưng rất ít em thực tâm tin. Những buổi truyền giảng của Đoàn Truyền giáo có rất nhiều thân hữu tin nhận Chúa Cứu Thế, còn các em bé mù này thì lòng chúng vẫn nguội lạnh dửng dưng với những lời của Phúc âm. Chúng tựa như chai đá không có cảm xúc hay những người chai đá. Tống Thượng Tiết biết rõ là tình yêu của con người không thể lay động tâm hồn và khiến cho thỏa lòng, ông chỉ biết cầu xin Chúa Thánh Linh soi dẫn mở mắt tâm linh thì chúng mới có thể cảm thông được tình yêu cao vời diệu kỳ của Chúa. Trong buổi truyền giảng sau cùng, ông đã nhấn mạnh và ca ngợi tình yêu của Chúa Cứu Thế và hướng dẫn các em bé mù này hát bài “Cha trên trời là Đấng chăm sóc”. Lời của bài đoản ca này đã khiến cho tâm hồn băng giá của các em tan vỡ trong tình yêu của Chúa. Rất nhiều em trong ngày hôm ấy đã thật sự tiếp nhận Chúa Giê-su làm Cứu Chúa của mình.
Những vùng lân cận của Ngô Châu, Nam Ninh… cũng đã dạt thư mời Đoàn Truyền giáo đến thăm viếng họ. Sau khi chọn lựa bằng cách bốc thăm, Tống Thượng Tiết, Lý Độ Vinh cùng với Nhiếp Tử Anh được cử sang thành phố Khuất Lâm. Tiếng đồn rằng đây là nơi có những Hội Thánh rất nổi tiếng của giáo phái Phúc âm Liên Hiệp, nhưng Tống Thượng Tiết lại gặp trở ngại rất nhiều với địa phương này. Các tín hữu đến dự không đúng giờ, trình độ giáo dục của họ lại rất thấp kém. Các buổi sinh hoạt thờ phượng sáng cũng như chiều chỉ có độ 7, 8 chục người và buổi truyền giảng lộ thiên ban đêm đông lắm cũng chỉ đến vài ba trăm là nhiều! Hơn nữa, giữa những cộng sự viên tổ chức rất nhiều bất đồng ý kiến với nhau. Người thông dịch cũng không đồng công hợp tác… vì vậy Thánh Linh không tự do tác động. Những thân hữu đến nghe truyền giảng không ai được cảm động.
Rời Khuất Lâm, Đoàn Truyền giáo đến Quảng Tây. Nơi đây Hội Thánh Báp-tít mời Đoàn tổ chức truyền giảng 3 ngày. Con số thân hữu thuộc thành phần học sinh đã lên đến hơn 3.000. Tưởng rằng đây là một vụ gặt lớn, nhưng không ngờ Hội Thánh này chỉ mời một mình Mục sư Kế Chí Văn chứ không phải mời cả Đoàn Truyền giáo. Do đó chỉ một mình Kế Mục sư Kế Chí Văn ở lại Quảng Tây còn cả Đoàn lại trở về Hồng Kông vào ngày 26 tháng 4. Ở đây Đoàn tổ chức sinh hoạt truyền giảng tại Hội Thánh Benhuri trong thời gian 4 ngày, và ngày sau cùng dùng để làm báp-tem cho tân tín hữu. Thánh lễ báp-tem đúng vào ngày 1 tháng 5 và Tống Thượng Tiết được mời để làm lễ. Ông từ chối nói rằng: “Chính tôi chưa nhận báp-tem làm sao có thể ban báp-tem cho người khác?”. Để hoàn chỉnh việc này: Mục sư Lý Thuận, quản nhiệm Hội Thánh trước hết làm lễ báp-tem cho Tống Thượng Tiết và sau đó Tống Thượng Tiết ban báp-tem cho những tân tín hữu. Số người nhận báp-tem hôm ấy là 21 nữ và 12 nam. Bắt đầu từ ngày 2 tháng 5, Đoàn Truyền giáo hướng dẫn học Kinh Thánh buổi sáng tại Hội Thánh Giám lý, buổi chiều tại Hội Thánh Hiệp Nhất và chuẩn bị một Đại hội Liên Hiệp cho cả Hồng Kông. Tuy vị quản nhiệm của Hội Thánh Hiệp Nhất ra điều kiện là không được cầu nguyện lớn tiếng và nhiều điều kiện khắt khe khác, nhưng cuối cùng Chúa đã ban cho kết quả thật là tốt đẹp. Ngày cuối, Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện cho 224 người mất bình an trong phần tâm linh.
Rời Hồng Kông Đoàn đến Quảng Châu hoạt động 1 tuần lễ và sau đó chuyển qua Xao Thầu thuộc vùng Tiều Châu. Nơi đây Đoàn hội ngộ với Mục sư Kế Chí Văn. Vì không đủ kinh phí nên Hội Thánh Xao Thầu chỉ có thể mời Đoàn làm việc 1 tuần lễ thôi. Đoàn đã phân công cho Tống Thượng Tiết phụ trách về phấn hưng và Mục sư Kế Chí Văn lo về truyền giảng. Trong nhà thờ có một hộp lớn dùng để đựng tiền dâng hiến, nhưng chẳng bao giờ dùng đến. Các chấp sự trong Hội Thánh chỉ phân phát những túi dâng hiến nhỏ, họ mong rằng tích tiểu thành đại, hy vọng có đủ chi phí cho Đoàn Truyền giáo đi đường.
Trong buổi giảng phấn hưng đầu tiên, mới bước lên bục giảng Tống Thượng Tiết đã lên án gắt gao tội ác của con người. Nhiều thính giả không chịu được những cáo trách của Đức Thánh Linh, lương tâm đã khóc lóc khi nghe Tống Thượng Tiết kêu gọi. Hầu như mọi người đều hưởng ứng, thú nhận hết những tội lỗi của mình và hết lòng cầu nguyện với Chúa. Lòng họ tan chảy như đê vỡ bờ và họ triệt để xưng ra tất cả những nỗi khổ đau tận đáy lòng với Chúa. Có một vị bác sĩ từ xa hơn 150 dặm đến nghe giảng phấn hưng, mới nghe ông ta thấy không thích hợp nên không muốn đến dự nữa. Nhưng không đến thì lòng lại xao xuyến bất an. Cuối cùng miễn cưỡng ông đến nghe tiếp. Sau vài ngày thì ông được Đức Thánh Linh đụng đến cõi lòng. Lúc Tống Thượng Tiết kêu gọi hội chúng xưng tội và hối cãi, vị bác sĩ này gần như không còn tự chủ được nữa mà phải bước lên trước bục giảng và quỳ xuống cầu nguyện. Lời chưa ra khỏi miệng, ông đã khóc nức nở và tỏ bày cho Chúa nghe từng tội lỗi của mình. Về sau này vị bác sĩ đã làm chứng lại rằng: “Khi tôi hướng về bục giảng thì Sa-tan ngăn cản tôi bằng tiếng nói thách thức: ‘Ông là bác sĩ, uy tín và có tiếng tăm, làm sao có thể tự hạ mình nhận tội trước công chúng như vậy được?’. Nhưng tôi đã quỳ xuống mà khóc lóc trước mặt Chúa. Sa-tan vẫn tiếp tục tấn công và cám dỗ: ‘Ông là bác sĩ, hành động như vậy xấu hổ lắm!’. Ttong lúc đó lòng tôi như tan vỡ nên không cần biết đến hư vinh, danh giá của người đời. Khi đã trút bỏ tất cả những gánh nặng tội lỗi cho Chúa thì tôi cảm thấy lòng mình tràn ngập bình an và vui sướng”. Có rất nhiều người tâm trạng giống hệt như vị bác sĩ này, làm chứng lại cuộc đời họ trước kia bị tội lỗi dằn vặt, khổ đau, buồn tủi, nhưng khi được hồng ân tha thứ của Chúa thì hưởng được phước hạnh. Khi một người được hồng ân tha thứ thì tình yêu Chúa tràn ngập lòng. Cho dù dầu cam tùng hương quý báu đắt giá đến đâu, người được tha thứ cũng sẵn lòng trút đổ ra xức trên mình Chúa. Lúc đầu thì Hội Thánh này rất e ngại không đủ tiền chi phí cho Đoàn Truyền giáo và những buổi truyền giảng, nhưng về sau kiểm lại số dâng hiến trong thời gian chiến dịch chẳng những đầy đủ mà còn dư nhiều, để lại cho quỹ Hội Thánh.
Các Mục sư và Truyền đạo của thành phố Phước Châu cũng họp nhau để tổ chức một chiến dịch truyền giảng tại trường huấn nghệ nghề mộc trong thành phố. Họ hy vọng rằng sẽ mời những đoàn viên của Đoàn Truyền giáo luân phiên đến giảng dạy trong chiến dịch này tại các Hội Thánh địa phương. Trong lúc đó thì ở vùng Hưng Hóa và thành phố Tiên Du cũng dạt thư mời Đoàn Truyền giáo đến thăm viếng họ. Tống Thượng Tiết lấy cớ là “không có tiên tri nào được trọng đãi trong quê hương mình”, nên đã xin Mục sư Kế Chí Văn đến những nơi đó còn mình thì ở lại Phước Châu để tham dự những sinh hoạt tại trường huấn nghệ mộc.
Những ngày đầu, buổi sáng thì sinh hoạt với Hội Thánh ở Thiên An Đường thuộc vùng núi Thường Điền, buổi chiều hướng dẫn học Kinh Thánh, ban đêm thờ phượng phấn hưng. Lúc đó các trường cùa Giáo hội đang qua kỳ khảo hạch bán niên, các vị giáo sư không khuyến khích học sinh của mình đến tham dự nên những buổi ấy rất vắng vẻ, chiến dịch không mấy kết quả.
Qua tuần thứ nhì, chiến dịch truyền giảng được tổ chức tại “Hội Thánh của Chúa Cứu Thế”. Địa điểm thích hợp rất tốt. Trong một buổi truyền giảng, Tống Thượng Tiết đã mang ra một chiếc quan tài nhỏ, ông tự làm lấy, để giảng về đề tài “mở nắp quan tài”. Trong chiếc quan tài ấy ông rút ra từng tờ giấy viết trên đó những tội phạm của con người. Khán thính giả thấy quan tài thì liên tưởng đến sự chết và tờ giấy viết trên đó rõ ràng những gánh nặng của mỗi tội lỗi chính mình đã phạm. Không ai là không bị rúng động sợ hãi. Số người đi đến phía trước để xưng nhận tội lỗi của mình càng ngày càng đông, con số lên đến hàng trăm người. Sau những buổi truyền giảng, những người đó đều xin được đặt tay cầu nguyện. Lớp người này tiếp gót lớp người kia mà đến, tất cả họ đều thấy được những cảnh huống thật xúc động khi đã được Chúa Thánh Linh bắt phục.
Kế đó Đoàn Truyền giáo đến Hội Thánh Thiên An Đường và ngụ tại nhà giáo sư Tạ Thiệu Anh. Buổi thờ phượng đầu tiên vừa khai mạc thì từng lớp lớp người kéo đến tràn ngập cả ngôi giáo đường. Bầu không khí thuộc linh tràn đầy trong lòng mọi người. Ai nấy thấy như dâng lên một tình yêu thiên thượng vô biên. Có một nữ sinh lớp 11 trường Huê Nam nghe giáo sư của mình giới thiệu một tiến sĩ khoa học đang giảng Phúc âm tại Hội Thánh Thiên An Đường, cô liền rủ một số bạn bè đến nghe thử. Vì ngày hôm sau có những môn thi trong lớp, nên cô đến nhà thờ nhưng cũng mang theo sách vở để học bài thi. Trong buổi thờ phượng hôm ấy, sau khi hát thánh ca, cầu nguyện, nữ sinh này thấy một ông thầy đồ trong chiếc áo vải thô dày màu xám, trong tay ôm một quyển Thánh Kinh thật lớn, đi lên chưa đến bục giảng thì đã cất giọng khàn khàn lớn tiếng đọc mấy câu Kinh Thánh . Cô tưởng ông ta là một sinh viên của trường thần học Hiệp Hòa lên đọc chương trình của buổi truyền giảng thì cô tiếp tục chú ý vào bài vở thi ngày mai. Nhưng không ngờ ông ta cứ tiếp tục giảng Phúc âm, trong cái giọng nói khàn khàn nhưng như có lực thu hút từ trên cao. Ông nói đến những trọng điểm bài giảng và lúc đó nữ sinh này đã để ý, cô không cầm được nước mắt. Thính giả chung quanh cũng đã có những tiếng khóc thút thít trong sám hối ăn năn. Cô không thể ngờ được ông đồ Nho mặc áo vải thô ấy chính là Tiến sĩ. Chính con người này đã phá vỡ cái thành trì kiên cố trong lòng cô. Sau này chính cô cùng một số giáo sư và bạn hữu đã lên Thượng Hải dự trại hè bồi linh Bê-tên. Chính cái bục giảng của ngôi giáo đường Bê-tên đã trở thành chiếc bàn thờ cho cô dâng chính đời sống mình để phục vụ Chúa. Về sau cô là người đã cộng tác đắc lực với Tiến sĩ Tống Thượng Tiết. Cô chính là nữ sĩ Trịnh Toại Lam, người viết lại quyển “Hồi ký của Tống Thượng Tiết”.
Buổi thờ phượng của tuần lễ cuối tại Hội Thánh Thượng Hữu Đường là buổi bế mạc của chiến dịch truyền giảng tại Phước Châu. Số tín hữu của Hội Thánh cũng như các nơi khác đến tham dự rất đông. Những người yêu mến Chúa đã biếu cho Tống Thượng Tiết rất nhiều quà tặng. Ma quỉ đã giận dữ và đã dùng nhiều thủ đoạn để hạ uy tín ông. Trong thành phố thấy dán đầy những biểu ngữ đả kích , nói rằng ông đã dùng những lời ma thuật để mê hoặc lòng người, khiến các học sinh sinh viên trốn học đi nghe thuyết giảng. Những lời này đã làm cho phụ huynh học sinh cảm thấy bất an. Có nhiều người đã viết thư đe dọa ông, khuyến cáo ông phải rời khỏi ngay, nếu không họ sẽ bắt và nhốt vào tù. Tống Thượng Tiết không muốn làm náo loạn các hội chúng và thính giả đến nghe nên đã lặng lẽ ra đi mà không một lời từ biệt.
Phước Châu là cao điểm của chiến dịch truyền giảng tại Hoa Nam và có ảnh hưởng sâu đậm trong giới trẻ và học sinh. Những thính giả trẻ tuổi này đến tham dự từ sáng sớm cho đến 10 giờ trưa. Khi bế mạc họ vẫn ngồi trong giáo đường chờ buổi thuyết giảng 3 giờ chiều. Họ sợ ra đi ăn trưa, khi trở lại sẽ không có chỗ ngồi! Chiến dịch truyền giảng kéo dài đến 27 ngày mà hầu như ngày nào cũng có mưa , cộng vào đó là những lời ngăm đe của nhà trường. Nhưng tất cả những trở ngại đó không làm giảm sút tấm lòng ham muốn nghe chân lý của họ. Sau mỗi buổi truyền giảng, những người trẻ này ra về từng đoàn từng đội vừa đi vừa hát những bài ca ngợi Chúa. Về nhà họ học bài lúc nửa đêm về sáng để ngày hôm sau lại tiếp tục đến giáo đường nghe thuyết giảng Phúc âm. Những người trở về với Chúa Giê-su để nhận sự cứu rỗi có trên 1.000 người. Họ đã cùng nhau tổ chức thành nhiều đội ngũ đi đến nhiều nơi khác nhau để truyền giảng Phúc âm. Trong số đó, rất nhiều người trước kia là “tín đồ” của Duy Vật Biện Chứng Pháp và đã từng công khai bài chống Cơ-đốc giáo. Bây giờ họ trở nên những tôi tớ trung kiên của Chúa Cứu Thế. Sau chiến dịch chừng 10 ngày, có khoảng 130 người rủ nhau đến Thượng Hải để dự trại hè bồi linh Bê-tên năm 1932.
Chiến dịch truyền giảng vùng Phước Châu này còn có 3 điều đặc biệt đáng ghi nhớ:
- Khi chiến dịch bắt đầu thì đã vào mùa hạ, thời tiết Hoa Nam nóng bức mà Tống Thượng Tiết vẫn chỉ mặc chiếc dài vải thô màu nâu xám trông thật trái mùa. Một nữ tín hữu thấy thế đã may biếu ông một lúc 8 cái áo dài hàng the. Hôm sau ông đứng trên bục giảng với chiếc áo mới trông ông như một thiên sứ mặc áo trắng tinh chói lòa đứng giảng Phúc âm.
- Lâm Cảnh Khang thông dịch viên cho Tống Thượng Tiết, vốn là người Phước Châu. Trong thời gian chiến dịch, con gái út ông Khang lâm trọng bệnh và qua đời. Lo xong việc mai táng cho con là ông Khang đến ngay địa điểm của chiến dịch để làm nhiệm vụ thông dịch của mình.
- Khi chiến dịch tại Hoa Nam vừa chấm dứt, Tống Thượng Tiết nhận thấy rằng sứ điệp cần phải bồi đắp thêm tình yêu thương. Muốn nuôi dưỡng cho tình yêu lớn lên thì phải trừ diệt đi lòng tham dục của con người. Muốn diệt được lòng tham dục thì cũng cần có thời gian, tối thiểu để cho tội nhân đối diện với sự cáo trách và khải thị của Đức Thánh Linh hầu dẫn đến ăn năn và hối cãi. Đây cũng chính là thời gian có cần cho người chăm sóc vun bón và nuôi dưỡng cho có hiệu quả, để đâm rễ và tăng trưởng vững mạnh. Đoàn truyền giảng tuần hoàn Bê-tên không có kế hoạch như thế, nên Tống Thượng Tiết có ý định chia tay với Đoàn để hoạt động tự do hơn. Ngay lúc đó những nhà lãnh đạo của Đoàn lại muốn mời ông chính thức gia nhập Đoàn, ông thấy khó mà khước từ lòng ưu ái đó. Hơn nữa nhà lãnh tụ của Đoàn cũng từng đề nghị là tất cả những quà tặng phải được xem như tài sản chung của Đoàn. Tống Thượng Tiết cũng muốn những việc này cho rõ ràng. Ông nghĩ nếu ông không chịu gia nhập Đoàn thì sẽ có sự hiểu lầm, người ta sẽ nghĩ rằng không dám công khai cho biết những quà tặng cho tất cả các Đoàn viên rõ. Hơn nữa ông vốn coi những điều thuộc về vật chất chỉ là những gì quá nhỏ mọn, so với việc lớn là cứu vớt linh hồn của đồng bào, ông chỉ cầu mong cho mọi người hiệp một với nhau để cho Phúc âm được phát triển. Vì vậy lúc đó ông đã chính thức gia nhập Đoàn Truyền giáo lưu hành Bê-tên.
Về sau hồi tưởng lại, ông nhận thấy rằng Bê-tên là một đoàn thể không thể hiểu được. Tống Thượng Tiết cũng nhận ra nguyên nhân sâu xa đưa đến việc gia nhập Đoàn Truyền giáo của ông là vì ông còn nghĩ đến con người xác thịt này, sợ thiếu thốn không tiền chi dụng trong khi đi hầu việc Chúa!
CHƯƠNG 36
CÔNG VIỆC TẠI THƯỢNG HẢI
(THÁNG 7 ĐẾN THÁNG 9 NĂM 1932)
Trại hè bồi linh Bê-tên năm 1932 họp tại Thượng Hải, khai mạc ngày 4 tháng 7 và kéo dài trong 10 ngày. Những trại viên phần lớn đến từ vùng Huê Nam như Phước Châu, Xoa Thu, Hồng Kông… còn những nơi khác vì ảnh hưởng của chiến tranh, ít người có thể đến tham dự được. Dầu vậy tổng số cũng lên đến 1.500 người. Tuy vào hè khí trời oi bức, người ta vẫn chen chúc trong nhà thờ của Giáo hội Bê-tên, nghe lời Chúa một cách thích thú say mê. Chương trình bồi linh của trại đã kết thúc, nhưng nhiều người còn khao khát mong muốn được học hỏi thêm để gây dựng cho đời sống thuộc linh. Tống Thượng Tiết phối hợp với Mục sư Kế Chí Văn mở một lớp Thánh Kinh ngắn hạn 3 tuần để dạy cho 120 học viên. Qua khóa này họ đã học được 16 sách của Kinh Thánh.
Sau đó, Tống Thượng Tiết tham gia Đoàn Truyền giáo lưu hành và đã tổ chức một vòng truyền giáo có tính cách toàn quốc. Đoàn đã đến 13 tỉnh, trải qua hơn 54.828 dặm đường, truyền giảng 1.199 lần, số người nghe lên đến 440 ngàn, số người quyết định tin nhận Chúa khoảng 18.000 người. Những con đỏ của Chúa Cứu Thế này đều tổ chức thành những đội ngũ truyền giảng, một mặt củng cố niềm tin của mình, mặt khác họ làm chứng cho người chưa biết Chúa.
Trong kỳ trại hè trên, đậc biệt có một vị khách đến từ một làng quê, dáng người thấp nhỏ, trạc ngoài 60, đầu tóc đã bạc phơ. Khi buổi truyền giảng vừa bế mạc thì cụ già này đã trở thành mục tiêu chú ý của nhiều người. Họ nhìn cụ ngạc nhiên rồi thì thầm to nhỏ cùng nhau. Ấy chính là thân sinh của Tống Thượng Tiết, cụ Mục sư Tống Học Liên. Do lời mời của Hội Thánh Bê-tên cụ từ Hưng Hóa đưa con dâu và cháu trai, cháu gái đến Thượng Hải, nhập chung vào trong đám đông tín hữu dự trại để nghe Tống Thượng Tiết – bấy giờ đã rất nổi tiếng.
Trại hè Thượng Hải và lớp Thành Kinh đoản kỳ vừa kết thúc, Tống Thượng Tiết cùng Lý Đạo Vinh và Nhiếp Tử Anh lại đến Xoa Thu theo lời mời của Hội Thánh Báp-tít để giảng cho trại hè bồi linh Mục sư, Truyền đạo, từ hạ tuần tháng 8 đến thượng tuần tháng 9, tổ chức tại một đảo đối diện với thành phố Xoa Thu. Rất nhiều tín hữu từ bên này thành phố đã đáp tàu sớm để sang bên kia đảo tham dự thờ phượng. Chiều về họp lại tại thành phố Phổ Ích. Tối họ lại kéo nhau đến Hội Thánh Bê-tên để tiếp tục thờ phượng và nghe giảng. Mỗi ngày họ phải được dự 3 lần mới thấy thỏa lòng. Trong những sứ điệp của Tống Thượng Tiết luôn luôn công kích tội lỗi. Ông khẳng định rằng tội lỗi là nguyên nhân đau khổ của con người. Chính tội lỗi khiến cho Hội Thánh hoang vắng và chết dần. Các tín đồ phải đầy ơn Chúa và Hội Thánh phải được phấn hưng. Muốn được vậy thì trước tiên phải thanh toán tội lỗi và nài xin Chúa Thánh Linh hành động mạnh mẽ. Mỗi người phải tự cáo trách về tội lỗi của mình, ăn năn và nhờ công lao của Chúa Cứu Thế để được tha tội và được tái sanh.
Có một vị bác sĩ y khoa đã tin nhận Chúa, ông ăn năn tội lỗi của mình. Trước hết, ông thú tội với bệnh viện lúc trước ông đến thực tập khi mới ra trường. Ông đã ăn cắp nhiều thuốc men và dụng cụ y khoa. Tiếp theo ông cũng lần lượt xin lỗi tất cả những người ông đã từng gian dối với họ. Nhưng có một lỗi lầm rất lớn mà ông không muốn nhận và xưng ra, nên ông đã tranh chiến thật cam go với Đức Thánh Linh. Số là ông có hận thù với một bạn đồng nghiệp rất nặng nề, không thể dung tha nhau. Đức Thánh Linh đã phán với ông rằng: “Con phải nhận lỗi và xin sự tha thứ của người này!”. Ông đã trả lời, là ông sẵn sàng xin lỗi bất cứ ai nào nhưng với người này thì không thể được. Sau đó không thể chống trả nổi với Chúa Thánh Linh nên ông đã đến nhà “kẻ thù” ấy để tạ tội. Đến cổng nhà “kẻ thù” thì ông cảm thấy quá xấu hổ và quay trở về, khóc lóc với Chúa rằng: “Chúa ôi, tội của con thật khó mà thú nhận!”. Khi ông cầu nguyện với Chúa thì thấy lòng càng nặng nề và khổ sở hơn, nên qua hôm sau ông quyết định trở lại nhà “kẻ thù”. Trên đường đi gặp “hắn”, ông cố gắng đến gần, mỉm cười chào, nhưng không ngờ y đã cười khẩy một cái rồi khinh bỉ quay mặt đi nơi khác. Thật là đau đớn, về đến nhà, càng nghĩ lại càng giận mình. Ông đã tự nhủ, không bao giờ, không bao giờ nữa! Nhưng Chúa Thánh Linh không chịu buông tha. Lòng ông nặng nề như bị một tảng đá chận trên ngực, đớn đau khổ sở vô cùng: Cuộc tranh chấp thật là cam go. Cuối cùng ông đã đầu phục Chúa, bằng lòng đóng đinh sĩ diện trên thập tự giá. Ông sửa soạn một lần nữa đến nhà “kẻ thù” để làm một nhân chứng tốt cho Chúa. Đối diện với “kẻ thù”, ông đã khóc lóc nhận tất cả lỗi lầm của mình và chân thành xin bạn thứ tha cho. Người bạn đồng nghiệp vô cùng kinh ngạc, một con người cứng cỏi, có địa vị như ông sao lại chịu hạ mình đến thế để nhận và xin mình thứ lỗi, nên đã hỏi cho ra ngọn ngành. Khi biết rằng bạn mình đã bị Chúa Thánh Linh cáo trách, 2 bên xưng nhận lỗi lầm, tha thứ cho nhau, và họ đã lãnh được tràn đầy ơn phước của Chúa… Hai người đã trở nên bạn rất thiết với nhau.
Cũng có một bà tín đồ đến trước tòa giảng xin được đặt tay cầu nguyện, Tống Thượng Tiết nhìn chăm chăm, chỉ vào mặt bà và nói rằng: “Cách đây 10 năm bà đã phạm một trọng tội, nhưng cho đến nay vẫn chưa chịu xưng nó ra, chưa ăn năn hối cãi!”. Bà này thoạt nghe thì khóc òa lên xưng tội và được tha thứ… Được đầy dẫy Thánh Linh nên Tống Thượng Tiết đã thấy được tỏ tường lòng người đối diện.
Đây là lần thứ nhì Tống Thượng Tiết đến Xoa Thu. Vòng truyền giáo trước đây đã để lại những thành quả tốt đẹp, nên đã mở được một cánh cửa rộng lớn cho công việc Chúa. Số người đến tham dự đông gấp đôi lần trước. Có nhiều người đau ốm, bệnh tật cũng cố gắng đến tham dự và được chữa lành. Quyền phép của Chúa đã tỏ bày cách mạnh mẽ càng ngày càng thêm.
CHƯƠNG 37
HÀNH TRÌNH ĐI HOA BẮC (1932-1933)
I. VÙNG BẮC KINH VÀ THIÊN TÂN
Khi Đoàn Truyền giáo về đến Thượng Hải, một lần nữa họ hướng về phía Bắc. Lần này Tống Thượng Tiết theo ngõ Hán Khẩu đi lên, những đoàn viên khác thì theo lối Thiên Tân. Họ hẹn gặp nhau tại Bắc Kinh vào cuối tháng 10 năm 1932. Khi qua Hán Khẩu, ông chỉ giảng tại đây 1 bài vì Hội Thánh này không đủ chi phí để mời Đoàn lưu lại lâu hơn. Họ chỉ mời nhân dịp ông đi ngang qua. Chính ông cũng thấy đây là dịp tốt cho chính mình để hầu việc Chúa nên đã nhận lời.
Đến Bắc Kinh, Đoàn Truyền giáo ngụ tại Hội Thánh Trưởng lão. Đây là lần đầu tiên Tống Thượng Tiết đặt chân đến thủ đô văn hóa này. Trường đại học Bắc Kinh cũng là cơ sở văn hóa lâu đời nhất của Trung Hoa. Ngày trước đại hội Bắc Kinh cũng đã dạt thư mời Tống Thượng Tiết đến làm giáo sư ngành sinh hóa. Nhưng đó là chuyện xa xưa!
Các nhà lãnh đạo của Hội Thánh Trưởng lão tưởng rằng số người đến tham dự sẽ không đông lắm, nhưng chỉ mới ngày khai mạc mà số người đến đã quá đông. Bảy giờ sáng, trời chưa sáng hẳn, Hội Thánh họp lại cầu nguyện. Thời tiết mùa đông giá buốt, nhưng đã có Lời Chúa làm ngọn đèn cho bước chân và sưởi ấm lòng người nên không ai thấy mệt nhọc và vất vả. Mười giờ sáng, Tống Thượng Tiết dảm nhận việc hướng dẫn học Kinh Thánh và giải Kinh, số người tham dự lớp này thường từ 10 người đã đột nhiên tăng vọt lên con số 200. Buổi chiều Mục sư Kế Chí Văn đảm trách việc giảng dạy và buổi tối Tống Thượng Tiết truyền giảng Phúc âm. Số thân hữu đến dự vô cùng đông đúc, những ai đến trễ là không còn chỗ trong giáo đường phải đứng bên ngoài. Tống Thượng Tiết truyền giảng thật mạnh mẽ, người ta có cảm tưởng như Giăng Báp-tít đang kêu gọi đồng bào ăn năn trong đồng vắng. Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm như một người lính xung trận với tinh thần chiến đấu.
Một trong những đêm của chuyến truyền giáo này, ông cục trưởng công an Bắc Kinh cũng đã đến nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm, ông rất thỏa lòng. Đêm sau ông mời cả gia đình cùng đến nghe, Chúa Thánh Linh đã bắt phục cả gia đình này, họ đều tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su. Chính ông cục trưởng đã đứng dậy cầu nguyện ăn năn và thừa nhận ông vốn là một kẻ gian ác cướp của giết người, ngôi nhà mà gia đình ông đang ở cũng là chiếm đoạt của người khác bằng những thỉ đoạn phi pháp. Chính nhờ qua sự xưng tội ăn năn ấy những lãnh tụ của Giáo hội cũng được phấn hưng , bằng lòng xóa bỏ tất cả những điều kiện hạn chế sự hoạt động của Đoàn Truyền giáo. Được tự do hơn, Đoàn đã tổ chức những đội ngũ để ra đi truyền bá Phúc âm. Mỗi đội có biểu hiện riêng bằng lá cờ của đội mình. Đoàn Truyền giáo muốn Tống Thượng Tiết qua hoạt động tại thành phố Thuận Đức, nhưng ông chưa muốn buông những công việc đang phát triển tại Bắc Kinh. Không thể quyết định dứt khoát, Đoàn phải dùng phương pháp bốc thăm để chỉ định nhân sự đi hoạt động những nơi chốn khác nha. Kết quả là Tống Thượng Tiết ở lại Bắc Kinh.
Công việc của tuần thứ nhất vẫn bình thường, nhưng qua tuần thứ nhì Đoàn phải dời địa điểm đến một thánh đường khác để huấn luyện và đồng thời hướng dẫn cho gần 800 tín hữu, đa số thuộc ngành giáo dục, thành lập thành 50 toán truyền giảng Phúc âm. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng vì có những toán truyền giảng Phúc âm dài hạn này nên ông không muốn rời Bắc Kinh vội, ông dọn vào tạm cư ngụ trong trụ sở hội Cứu Thế Quân. Một mặt ông tổ chức truyền giảng kêu gọi người ta ăn năn, một mặt huấn luyện những “tân binh” mới được kêu gọi vào đội ngũ. Hội trường của Cứu Thế Quân không được rộng rãi lắm và số thính giả đến quá đông nên phải chen lấn nhau để có chỗ ngồi. Những người đến dự thật sự khao khát được nghe Phúc âm nên không hề than phiền khi phải ngồi chen chúc nơi chật hẹp. Tại hội trường, con số người tin nhận Chúa lên đến 2, 3 trăm, còn những người đến riêng với Tống Thượng Tiết để xin cầu nguyện không dưới con số ngàn. Có những người vừa thấy Tống Thượng Tiết đã run rẩy quỳ xuống, khóc nức nở cầu nguyện ăn năn tội với Chúa. Sau khi cầu nguyện nét mặt của họ lộ vẻ an bình và vui sướng của một tấm lòng được thứ tha.
Những Hội Thánh phụ cận Bắc Kinh đua nhau mời Tống Thượng Tiết đến truyền giảng tại địa phương của họ. Đoàn Truyền giáo phải giải quyết tổ chức những buổi truyền giảng “liên hiệp” và tổ chức tại nhà thờ của Hội Thánh Công Lý là nơi có thể chứa được nhiều thính giả nhất. Có mật tin cho Tống Thượng Tiết hay rằng, có một giáo sư trung học cùng các học trò của ông ta muốn hành hung Tống Thượng Tiết. Họ xin ông hãy lưu tâm cẩn thận tốt hơn hết là không nên công khai đứng lên giảng ở Hội Thánh Công Lý. Những học sinh trung học thuộc Hội Thánh Công Lý cũng nghe tin ấy, họ muốn tổ chức một đội ngũ làm vệ sĩ cho Tống Thượng Tiết. Giữa những hoang mang trầm trọng, Tống Thượng Tiết tuyên bố một cách nhã nhặn: “Tôi đứng giảng Phúc âm tại đây, ai muốn hành hung tôi thì xin cứ mời đến!”. Kết cuộc không có ai công khai hành động, người muốn hành hung Tống Thượng Tiết thì cũng âm thầm lẩn vào trong đám đông thính giả để nghe ông giảng. Chính ông giáo sư đó được Chúa Thánh Linh bắt phục, đã đứng dậy thú nhận âm mưu của mình trước hội chúng và xin cầu nguyện tuyên xưng đức tin. Ngọn lửa phấn hưng chỉ chờ cơn gió ấy để bừng cháy lên trong thành phố cổ kính này. Những tiếng hát ngợi khen vang dội khắp nơi. Hơn 100 đội ngũ ra đi gieo giống Phúc âm với cờ xí bay rợp khắp đường phố. Mục sư James Lanes của giáo phái Trưởng lão Hoa Kỳ tại Bắc Kinh có viết cho giáo phái Bê-tên mô tả cơn phấn hưng tại tại Bắc Kinh như sau: “Đoàn Truyền giáo của quí hội đã làm bùng cháy một cơn phấn hưng vĩ đại tại đây không thể dùng ngôn từ để mô tả cho chính xác được. Chúa đã nhậm lời cầu nguyện và đã làm quá những gì chúng tôi mong ước: Nhiều người đã thống hối ăn năn, tin nhận Chúa, say mê học hỏi Lời Chúa, tìm cầu sự tăng trưởng tâm linh và hăng hái ra đi làm chứng Phúc âm của Chúa Cứu Thế. Tôi chưa từng thấy đoàn thanh niên nào hăng hái hầu việc Chúa như đoàn người trẻ này. Những tín hữu của giáo phái Trưởng lão chúng tôi thường có đời sống tin kính truyền thống nề nếp, bây giờ thấy cả một hội chúng đông đảo đồng thanh cầu nguyện, ngợi khen, chúng tôi thấy quả thật là cả một hiện tượng kỳ diệu chưa từng nghe và thấy. Từ đó chúng tôi rút được bài học quý giá này: Sự cầu nguyện khẩn đảo để được Chúa Giê-su chiếm hữu tấm lòng và hoàn toàn thuận ý chỉ của Ngài là điều kiện tiên quyết để nhận được ân phúc. Một vị giáo sĩ Tây phương đã viết thư cho tôi (James Lanes): “Tôi đã được ánh sáng rọi chiếu cho tôi nên tôi muốn được viết lời chứng của tôi: Tôi đến Trung Quốc với nhiệm vụ là đem người Trung Hoa đến với Chúa Cứu Thế, nhưng không ngờ chính người Trung Hoa đã hướng dẫn tôi đi vào trong sự trọn lành của Đấng Cứu Thế!””.
Tống Thượng Tiết làm việc tại Bắc Kinh liên tục trong vòng 32 ngày. Chúa đã ban ân phúc rất lớn là có trên 2.000 người tin nhận Chúa và được tái sanh. Công việc Chúa tốt đẹp thì ma quỷ cũng giận dữ muốn phá rối. Chúng đã thôi thúc một vị trưởng lão giả hình trong Hội Thánh, cũng chính việc này mà chiếc mặt nạ giả hình của ông ta đã rớt xuống.Vị trưởng lão ấy thấy Chúa ban phước trên những sứ điệp của Tống Thượng Tiết nên đem lòng ganh ghét. Ông ta định vào ngày chót sẽ xúi giục trên 200 em học sinh đến phá rối buổi truyền giản. Có một lão bà trong Hội Thánh biết được âm mưu này nên đã báo Tống Thượng Tiết hay và khuyên ông nên rời khỏi Bắc Kinh sớm hơn 1 ngày. Tống Thượng Tiết nghe tin liền quỳ gối xuống cầu nguyện xin ý Chúa. Tiếng Chúa phán rằng: “Đừng sợ, con phải giảng cho hết những giáo lý cần phải giảng”. Như thường lệ, Tống Thượng Tiết giảng Lời Chúa rất mạnh mẽ và đêm hôm ấy ông đã dùng câu chuyện Phao-lô và Si-la bị xiềng trong ngục nhưng vẫn hát ca ngợi Chúa và Chúa đã bẻ gãy mọi xiềng xích cho họ. Trong khi sứ điệp đang được ban phát qua Tống Thượng Tiết, những thanh niên được lệnh phá rối đã đứng sẵn trước cửa và bao vây giảng đường, chặn đứng tất cả các lối ra, những kẻ đồng mưu còn lại đã lẻn vào cửu trước xông lên tòa giảng định hành hung Tống Thượng Tiết. Thật không ngờ hôm đó có vị tư lệnh quân đội biệt khu Bắc Kinh đến dự buổi truyền giảng. Tháp tùng ông có đông đội viên của đội tầm nã. Thấy cảnh tượng rối loạn, vị tư lệnh này đã ra lệnh bắt tất cả những kẻ gây náo loạn, bắt luôn cả vị trưởng lão chủ xướng việc này. Vị trưởng lão này không ai khác hơn chính là một trong những ủy viên của Hội Cứu Nạn, chính ông đã từng thâm thủng trên 50.000 đồng công quỹ. Ông ta đã nghe Tống Thượng Tiết giảng và cáo trách tội lỗi. Không những đã cứng lòng không chịu “mở nắp quan tài” xưng nhận tội lỗi của mình mà lại còn đem lòng đố kỵ ganh ghét, xem Tống Thượng Tiết như kẻ thù không đội trời chung. Kỳ thực Tống Thượng Tiết đâu có biết gì về tội lỗi kín giấu của vị trưởng lão ấy. Trong những sứ điệp của Tống Thượng Tiết, ông thường chỉ trích những tội như tham lam, cướp giật… Vị trưởng lão này vì có tật thì giật mình, đem lòng căm giận và muốn làm hại Tống Thượng Tiết. Trước khi vị trưởng lão ấy bị bắt, chung quanh Tống Thượng Tiết luôn luôn có hàng 5, 6 trăm người nên ông không thể nào ra tay hành động được. Chúa không cho phép bất cứ một ai có thể rờ đến một sợi tóc của tôi tớ Ngài. Người ác muốn hại người công bình, nhưng cuối cùng chính nó bị sa vào bẫy rập. Vị trưởng lão nói trên chỉ là một ví dụ điển hình trong muôn một.
Bắc Kinh lúc bấy giờ cũng là trung tâm của nhóm Tân Thần Học vì vậy tại thủ đô không thiếu những “Tân Thần Học Viện”. Những sinh viên của những viện này cũng đến dự nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng. Sau khi được nghe chân lý thì một số trong đám họ đã tin Thượng Đế là Chân Thần sống và họ tiếp nhận Chúa Giê-su làm Cứu Chúa của mình. Kế đó có 10 sinh viên đến gặp riêng Tống Thượng Tiết và tâm sự rằng, chính vào Thần Học Viện mà họ đã đánh mất niềm tin ban đầu. Họ tỏ ý muốn rời khỏi Thần Học Viện ấy càng sớm càng tốt. Chính vì việc này mà Viện Trưởng Viện Thần Học đó đã đích thân đến gặp Tống Thượng Tiết để chất vấn. Tống Thượng Tiết chẳng lộ vẻ gì khiếp sợ, nhưng ngược lại đã mạnh mẽ chỉ trích những kẻ không trung thành với Lời Chúa: “Các sinh viên của quí viện đã mất đức tin như vậy chắc chắn nội dung giảng dạy của quí viện phải có điều gì sai trái”. Có rất nhiều thanh niên có cảm tình với Tống Thượng Tiết mà muốn đi con đường của ông đã đi. Có những nữ sinh có ơn Chúa của trường trung học của giáo phái Trưởng lão đã ghi danh theo học trường Thần đạo Bê-tên. Có những tiên tri giả vì ganh tức nên đã lên án Tống Thượng Tiết là Christ giả. Lời gièm chê hiểm độc nhưng Tống Thượng Tiết vẫn không nao núng và tuyên bố rằng: “Tôi chỉ nhìn xem Chúa và bước đi cách dạn dĩ, tôi không nhìn xem một ai ngoài Chúa”.
Có một nữ sinh viên thuộc Đại học Bắc Kinh, nhân ngày nghỉ chia tay với bạn bè, một người đã tặng cô một quyển Thánh Kinh. Cô này đã xé toang và tuyên bố: “Tôi không cần Kinh Thánh, cũng chẳng cần Chúa”. Qua năm sau cô bị bệnh lao nặng, đến dưỡng bệnh tại núi Tây Sơn, người bạn cũ lại đến biếu cho cô một quyển Thánh Kinh khác. Lần này cô ta không dám xé nữa. Khi nghe tin Tống Thượng Tiết đang có cuộc truyền giảng ở Bắc Kinh, cô nhờ người nhà đưa cô đến đó để nghe. Cô đã được Chúa thăm viếng, Lời Chúa đã khiến cô cảm động, cô cầu nguyện xưng tội và xin ông cầu nguyện cho. Chúa đã nhậm lời chữa lành bệnh cho cô.
Chiến dịch truyền giáo tại Bắc Kinh đã hoàn tất, một vị giáo sĩ của Giáo hội Trưởng lão của Hoa Kỳ, Mục sư Stanley Smith đã có một câu kết luận: “Tiến sĩ Tống Thượng Tiết đã để lại Bắc Kinh một ảnh hưởng lớn lao”.
Các nhà lãnh tụ của các giáo phái tại Bắc Kinh tìm cách lưu Tống Thượng Tiết nán lại thủ đô lâu hơn nữa, nhưng ông lấy đối tượng người Trung Hoa trong nội địa cũng như ở hải ngoại làm mục tiêu. Ông đã từ chối lời mời ở lại, trong lúc Mục sư Kế Chí Văn muốn ông đến tỉnh Sơn Tây. Giáo phái Liên hiệp tại Thiên Tân cũng phái đại diện là Trương Chu Mân đến Bắc Kinh mời Tống Thượng Tiết đến ban phát Lời Chúa. Sau khi cầu nguyện, Tống Thượng Tiết nhận lời đi Thiên Tân.
Hội Thánh tại Thiên Tân chưa bao giờ được phấn hưng và cũng chưa bao giờ thấy những người được Chúa thăm viếng sau khi nghe Lời Chúa tự động đi lên phía trước quỳ gối cầu nguyện ăn năn xưng tội với Chúa. Đa số tín hữu nơi giữ thái độ lạnh lùng, kiêu căng nên kết quả trong những ngày đầu không đáng kể. Sau 10 ngày giảng dạy tại Hội Thánh Wesleyan, Tống Thượng Tiết vội vàng cầu vấn Chúa. Sau buổi sứ điệp phục hưng, có những tín hữu không dám công khai cầu nguyện giữa hội chúng đã đến gặp riêng Tống Thượng Tiết tại nơi ông tá túc là trụ sở hội YMCA. Họ cầu nguyện ăn năn xưng tội cá biệt với Tống Thượng Tiết. Những mệnh phụ vợ các vị quan lớn , những sinh viên v.v.. đã trở nên như những đứa trẻ sơ sinh. Họ trở nên những người rất khiêm tốn và kính yêu Chúa.
Có một phu nhân của một vị tướng lãnh, sau khi nghe truyền giảng muốn đầu phục Chúa, nhưng không dám nhận mình là vợ bé, cũng không muốn bỏ người chồng già nghiện ngập của mình, bà nhiều lần dập tắt sự thôi thúc của Chúa Thánh Linh. Về sau đã bị bệnh thần kinh nặng, trường hợp của bà này là một gương cho những ai đã được Chúa Thánh Linh thăm viếng mà cố tình ngoan cố không chịu tuân phục Ngài.
Tại Thiên Tân có một nữ hiệu trưởng trường trung học, được tiếng là người học rộng. Bà cũng nhận lời đến nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm với mục đích là xem thử ông ta giảng như thế nào, tại sao nhiều người nghe thích thú?... Khi nghe Tống Thượng Tiết giảng, Chúa Thánh Linh làm việc trong lòng bà. Tất cả những tội ác che đậy xưa nay hiện rõ ra trong tư tưởng bà, nhưng bà còn vì e ngại cho địa vị tiếng tăm của mình nên không dám xưng ra giữa hội chúng. Khi về nhà bà trở thành câm, về sau bà phải xin mời Tống Thượng Tiết đến để cầu nguyện. Bà ăn năn xin Chúa tha thứ tội lỗi, Chúa đã nhậm lời và chữa lành. Bà được nói lại và được Chúa biến đổi trở thành người yêu mến Chúa và yêu Giáo hội. Bà rất có ơn phục vụ trong việc dâng hiến.
Cũng tại Thiên Tân có một người đàn bà có chồng là một kỹ sư du học từ Hoa Kỳ về. Bà có căm thù một người bạn, bà đã giữ yên lặng với người này hơn 13 năm. Khi nghe Tống Thượng Tiết giảng về sự tha thứ, bà cũng có xin ông cầu nguyện cho mình. Dầu vậy, lòng bà vẫn chưa thấy vui thỏa. Tống Thượng Tiết khuyên bà nên về làm hòa, xin lỗi người ấy. Phương pháp đơn giản và dễ thực hiện nhất là viết cho bà ta một bức thư. Bà nghe lời, về nhà cặm cụi viết thư xin lỗi, viết được nửa trang thì ngưng vì nghĩ rằng làm như thế này thì mất mặt quá. Nhưng sau bà cũng miễn cưỡng viết cho xong. Mãi mấy ngày sau bà nhờ người giúp việc mang thư đi. Sau bà giật lại, ý nghĩ cũ lại hiện về làm như thế này thì mất mặt quá! Chưa xin lỗi thì chưa có sự bình an. Cuối cùng bà lấy hết can đảm và lòng nhịn nhục nhờ người nhà mang thư đó đi. Sau khi đọc thư ấy, người của 13 năm hận thù đã trở lại thân thiết như xưa. Thung lũng nước mắt giờ đây trở thành một nguồn suối hoan lạc cho cả đôi bên nhờ sự rao giảng Phúc âm do Tống Thượng Tiết.
Thời hạn 10 ngày của chiến dịch tại Thiên Tân đã hết, nhưng vì lòng ngưỡng mộ của các em học sinh nên ban lãnh đạo của Giáo phái Giám lý thỉnh cầu Tống Thượng Tiết đến thánh đường của họ ở cửa ải phía Nam thành phố để truyền giảng. Ban đầu vị Mục sư sở tại không đồng ý, nhưng vì áp lực mạnh mẽ của đám đông học sinh nên ông bất đắc dĩ phải đến để thương lượng mời Tống Thượng Tiết. Sau chiến dịch truyền giảng 8 ngày, tất cả những thành trì chống đối đều sụp đổ. Trước kia có những người đã nghe Phúc âm nhưng còn do dự, bây giờ tất cả đều quyết định tin nhận Chúa Cứu Thế. Rất nhiều học sinh vốn là con em của những quan lại cũ, sau này họ trở thành những phần tử trung kiên của Giáo hội. Ngày cuối cùng của chiến dịch tại cửa ải phía Nam, trong khi Tống Thượng Tiết đang thuyết giảng thì có một người điên xông tới, tay cầm một thanh đại đao dịnh hành hung ông nhưng Chúa cho có nhiều người trông thấy và cản ngăn kịp thời. Khi ông rời Thiên Tân, có mấy trăm tín hữu ra sân ga tiễn đưa, có một chị em tín hữu mua cho ông 1 vé xe hạng nhất, Tống Thượng Tiết nói rằng: “Tôi chưa bao giờ di chuyển trên toa xe sang trọng như vậy!”
Đến Bắc Kinh, Tống Thượng Tiết đến ngay thành phố Trịnh Châu thuộc tỉnh Hà Nam, nhà nguyện thành phố Trịnh Châu thuộc tỉnh Hà Nam, nhà nguyện thành phố Trịnh Châu quá nhỏ hẹp, nên phải căng lều làm nơi nhóm lại thờ phượng và truyền giảng. Khi thì gió bụi mịt mùng, khi thì mưa gió lạnh buốt thấu xương, những thính giả đến tham dự đa số thuộc giới lao động và cô nhi. So với thính giả ở Thiên Tân thì cách biệt nhau một trời một vực. Tống Thượng Tiết nghĩ đến việc đưa những người sống trong thành phố thỉnh thoảng đến những vùng thôn dã để thấy rằng mình phục vụ không phải vì thế tục. Vì vậy ông đã huấn luyện những người lính chiến tinh nhuệ trong thành phố, sẵn sàng đến khắp bốn phương thôn xóm để truyền bá Phúc âm. Dân cư sống trong những thôn làng thường họ rất đơn sơ, chơn chất và cởi mở hơn những kẻ sống trong những thành phố. Sau mỗi lần nghe truyền giảng, được mời gọi họ liền đứng dậy cầu nguyện công khai xưng ra những tội lỗi của mình. Có 2 vị Truyền đạo dược Chúa thăm viếng nên sau đó đã phục vụ Chúa cách đắc lực. Trong chiến dịch truyền giảng đó cũng có 2 phụ nữ dâng mình đi vào trường Thần học.
Đoàn Truyền giáo trở về Thượng Hải thì Tống Thượng Tiết gặp lại được mẹ. Bà cụ kể cho ông nghe tình hình về những nhân viên khác trong Đoàn như Mục sư Kế Chí Văn đang hoạt động ở Sơn Tây và gặp rất nhiều khó khăn. Có vài vị trong ban lãnh đạo của Đoàn có ý trách Tống Thượng Tiết chỉ thích hoạt động tại nơi đô hội thành phố đông đúc, còn để những cộng sự viên khác thì hoạt động tại những vùng thôn quê hẻo lánh. Đối với những lời phê phán này, Tống Thượng Tiết đã giải thích: “Điều quan trọng đối với tôi ở thành phố không phải là sự hưởng thụ mà là tại đó là nơi tập trung dân cư đông đúc. Hơn nữa gánh nặng thập tự giá của 2 nơi cũng có phần khác biệt; trong các làng mạc thôn quê tuy có khó khăn về cuộc sống vật chất nhưng tại những nơi đô hội thì lại khó khăn về cuộc sống tinh thần. Có ai phủ nhận điều này: Những nơi phồn hoa là vực thẳm của tội lỗi. Lòng người ở những chốn ấy chẳng những kiêu căng mà còn cứng cỏi. Có muôn vàn phương cách để họ khước từ Tin Mừng của Chúa. Những hạt giống mọc lên trong vùng đất đô thị phải được nuôi dưỡng bằng mồ hôi và nước mắt. Làm công việc Chúa tại các thành phố không phải là một hưởng thụ. Nếu tôi thích những cái phúc của trần tục này, thì phần thưởng của tôi ở trên trời sẽ không có chi hết. Đem so sánh thì đâu là phần tốt hơn, mong rằng Tống Thượng Tiết này không phải là người ngu dại ấy!”
Trong những ngày chờ đợi anh em đồng công trở về thì Tống Thượng Tiết tổ chức những buổi truyền giảng tại trường nữ trung học Huệ Trung (một trường thuộc Giáo phái Sa-bát). Cả thầy lẫn trò thuận đạo khoảng 5, 6 chục người, tuy rằng giữ lễ ngày thứ 7 nhưng họ cũng đã đi vào trong ơn của Chúa. Họ xem nhẹ những hình thức của Giáo phái mà làm bạn thân thiết với Tống Thượng Tiết. Khi các bạn đồng công đã từ các nơi về lại Thượng Hải, Tống Thượng Tiết hứa với họ là từ rày sẽ không chia tay nhau nữa. Nhưng rồi về sau, ý kiến của các đoàn viên ngày càng khác biệt, thậm chí họ chỉ có vẻ hòa thuận liên kết với nhau bên ngoài. Trong lúc ấy thì mối giao hảo giữa Nhật và Trung Quốc đã đến hồi căng thẳng. Những nhà lãnh đạo Bê-tên chủ trương dời trường y tá và Thần Học viện ra Hồng Kông và dời cô nhi viện đến thành phố Đại Danh Thủ.
Tống Thượng Tiết trong khi chờ đợi Đoàn Truyền giáo chuẩn bị cho vòng hoạt động tới, thì ông soạn những bài báo cho tờ Thánh Khiết Chỉ Nam của năm 1933. Một chị em, lúc trước vốn là một y tá nhưng về sau dâng mình hầu việc Chúa, viết lại được hơn 30 bài văn, chính vì công việc này mà có những lời ra tiếng vào không hay.
II. CÁC TỈNH SƠN ĐÔNG, HÀ TÂY, SƠN TÂY, HÀ BẮC, HÀ NAM
Đầu năm 1933, Đoàn Truyền giáo xuất phát một chiến dịch mới tại Sơn Đông. Vì cả 5 người trong Đoàn cùng đồng hành, công việc đã chia ra để cùng làm nên Tống Thượng Tiết nhận nhiệm vụ ít hơn những vòng truyền giáo khác. Ông vốn là một người thích làm việc nhiều, vòng truyền giáo này cũng muốn dùng cho cạn nguồn năng lực và tài lực của mình mới thỏa lòng. Bây giờ cơ hội phục vụ và làm việc bớt đi , ông thấy áy náy khó chịu. Khi đến thành phố Tế Nam, công trường chính của Tống Thượng Tiết là Đại học Tề Lỗ. Lúc bấy giờ tại đó có một vị trưởng ty tài chánh họ Âu, vốn là người đã tin nhận Chúa. Ông Âu có một con gái đang theo học tại Đại học Tề Lỗ và đã được nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng Phúc âm và cũng đã tin nhận Chúa. Nghe tin này ông Âu vô cùng sung sướng, thêm lòng yêu mến Chúa và hăng hái làm chứng về Chúa cho những chính khách và giới giáo dục.
Sau Tế Nam cùng một lúc có 2 nơi cùng dạt thư mời Đoàn Truyền giáo đến hoạt động. Để tiến hành công việc tốt đẹp, Đoàn lại phải dùng đến giải pháp “chia để hành động”. Tống Thượng Tiết nhận trách nhiệm đến thành phố Tế Ninh còn Mục sư Kế Chí Văn đến Duy Huyện. Thành phố Tế Ninh là nơi Mục sư Kế Chí Văn đã từng hoạt động nhưng lúc đó dùng thánh đường giáo hội Trưởng lão làm địa điểm chính. Bây giờ địa điểm là nhà thờ Giáo phái Báp-tít. Ngọn lửa Đức Thánh Linh vừa bộc phát thì các vị trưởng lão, chấp sự trong Hội Thánh đã được bừng cháy và liền được trông thấy vinh quang của Đức Chúa Trời: Một trưởng cai ngục đã tin nhận Chúa sau khi nghe truyền giảng, ông ta liền mời Tống Thượng Tiết vào nhà lao truyền giảng Lời Chúa cho hơn 100 tù nhân.
Khi công việc của 2 vị Tống, Kế đã xong thì họ hẹn gặp nhau tại Huỳnh Huyện. Những bị giáo sĩ Tây phương tại huyện này vốn có thành kiến với Mục sư Kế Chí Văn nên Tống Thượng Tiết phải đi cùng với Mục sư Kế Chí Văn. Mấy ngày đầu Tống Thượng Tiết nhận làm người tiên phong mở đường làm quen với các vị giáo sĩ. Sau đó mới giới thiệu Mục sư Kế Chí Văn với họ và để Mục sư lại hoạt động nơi đó còn riêng Tống Thượng Tiết thì đến “khai hoang” thành phố Đăng Châu. Nơi đây tín hữu rất ít oi, lại chẳng khao khát Lời Chúa. Hơn nữa các giáo sĩ ngoại quốc và các Mục sư bản xứ không đồng tâm tình nên công việc Chúa càng khó khăn hơn. Nhưng Tống Thượng Tiết là người rất kiên trì, càng cố gắng truyền giảng chân lý. Sau mấy hôm không có kết quả, ông liền đổi truyền giảng thành những buổi nhóm cầu nguyện, Trong khi đang cầu nguyện thì Chúa đã ban Lửa Thánh Linh giáng xuống khiến cho lòng bằng đá cũng phải tan chảy. Những hiểu lầm giữa các giáo sĩ và Mục sư bản xứ đã được đánh tan, mọi người đều ca ngợi Thượng Đế.
Sau đó Đoàn đến một địa điểm nghỉ mát rất danh tiếng là Yên Đài. Tãi đây Tống Thượng Tiết phụ trách 2 buổi thờ phượng và giảng dạy sáng chiều. Mục sư Kế Chí Văn lo buổi thờ phượng cho các con em của giáo sĩ ngoại quốc đang hầu việc Chúa tại Trung Hoa.
Tống Thượng Tiết chia sẻ kinh nghiệm của mình nhận được tại Yên Đài như sau: “Ngày ấy tôi đã kinh nghiệm về sự chết thêm một bước nữa với Chúa để được ngọn lửa Chúa Thánh Linh thiêu cháy mình trọn vẹn. Không còn bị một sự việc nhỏ nhen nào làm vướng bận. Chúa Thánh Linh của sự vui mừng tràn ngập trong tôi, giữ gìn tôi, khiến tôi được bình an lạ thường giống như một dứa bé vừa no sữa, ngủ an bình trong lòng mẹ”.
Rời Tế Ninh Đoàn Truyền giáo đến Cao Mật, là một vùng hoang dã. Đoàn căng lều lên ở và những ý định đồng công cùng nhau hoạt động tại địa điểm này, nhưng Mục sư Kế Chí Văn lại được các Hội Thánh tại Giao Châu mời nên Đoàn lại phải chia tay nhau. Hội Thánh tại Cao Mật rất chú trọng đến ân tứ nói tiếng lạ, nhưng sau khi nghe những sứ điệp phục hưng thì những người có ân tứ tiếng lạ cũng cầu nguyện ăn năn xưng tội lỗi của mình với Chúa. Từ đó suy ra rằng, tiếng lạ không phải là một ấn chứng cho người có ân tứ, nhưng một con người thánh khiết mới là điều quan trọng trước mặt Chúa.
Công việc của Mục sư Kế Chí Văn ở Giao Châu cũng được Chúa ban ơn rất nhiều. Lúc ấy Mục sư Giáo sư Đinh Lập Mỹ rời trường Thần học Bê-tên để nhận một trách nhiệm khác. Ban giám học của trường Bê-tên có ý định mời Mục sư Kế Chí Văn về thay thế. Tống Thượng Tiết nhận định rằng nếu ý của Chúa muốn chỉ những nhân viên Đoàn Truyền giáo đi giữ những nhiệm vụ khác nhau thì chắc chắn sẽ có nhiều biến cố khác sẽ xảy ra khiến cho họ khó còn có dịp hợp tác với nhau trong Đoàn Truyền giáo. Chiến dịch tại Sơn Đông tạm thời kết thúc.
Về công việc của Đoàn Truyền giáo Bê-tên tại tỉnh Sơn Đông, tiến sĩ Horc Appit đã viết một bài tường thuật như sau: “Với những người thổ phỉ hung tàn, thú vui của họ là giết người. Quan lại thì tham ô hủ bại; quân đội thì kiêu binh, vô kỷ luật; học sinh thì vô lễ, không nghe lời thầy giáo của mình... Từ thương gia cho đến kẻ hành khất, từ những họ giả cho đến các anh phu xe; bất luận nam hay nữ, già hay trẻ... tất cả như đều được Chúa thăm viếng khi nghe truyền giảng Phúc âm. Họ dạn dĩ đứng dậy cầu nguyện xưng tội ăn năn. Cảnh tượng này thật chưa hề xảy ra tại tỉnh Sơn Đông”.
Tháng 3 năm 1933, Đoàn Truyền giáo từ Sơn Đông đến thành phố Khai Phong thuộc tỉnh Hà Nam. Họ tổ chức truyền giảng trong giảnh đường của một trường nam trung học thuộc hệ phái Báp-tít. Những ngày đầu, học sinh không mấy quan tâm, họ chiếu theo lệ thường đi đến trường học không mấy ai đến dự truyền giảng. Nhưng sau khi một vị giáo sư của trường tiếp nhận Chúa, ông mới hướng dẫn học sinh của mình chừng 5, 6 chục em đến nghe truyền giảng. Các em đã tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-su rất đông. Vì Mục sư Kế Chí Văn có công việc về Thượng Hải gấp nên những đoàn viên còn lại của Đoàn đến thành phố Kỹ Huyện.
Trước khi đến đây thì tin tức cho biết là sẽ có khoảng 300 học sinh đến nghe Phúc âm, nhưng trên thực tế những người đến dự toàn là các bà lão , đàn ông chỉ có vài người... Trước tình hình này, Tống Thượng Tiết phải xoay qua phương pháp biểu thị bằng hình ảnh. Tuy ông đã diễn lui diễn tới nhiều lần nhưng khán thính giả của ông vẫn chẳng hiểu gì, ông bảo họ nhận tội, họ nhận tội liên tiếp! Tống Thượng Tiết không biết làm sao hơn là đặt tay cầu nguyện cho họ. Sau khi đã đặt tay cầu nguyện, lòng họ như mở ra, thông suốt và hiểu biết chắc rằng mình đã được tha thứ và không cần phải lặp lại nhiều lần nữa, Tống Thượng Tiết nhận ra một chân lý: “Ỷ vào sức riêng của mình thường làm những việc luống công, nhưng khi biết nhờ cậy vào Chúa Thánh Linh mà làm thì Ngài sẽ thực hiện gấp bội những điều chúng ta mong ước. Đây thật là một bằng chứng cụ thể công việc của Chúa Thánh Linh”.
Hoạt động ở Kỳ Huyện được 4 ngày, Đoàn trở lại thành phố Khai Phong, tổ chức truyền giảng tại một giảng đường thuộc hệ phái Giám lý. Số thính giả đến dự khoảng 7, 8 trăm người. Tại đây những lãnh tụ Hội Thánh người Hoa cũng như các giáo sĩ ngoại quốc đã phối hợp với nhau làm việc rất chặt chẽ. Trong số đó có Mục sư James Taylor (con trai của ông Husson Taylor) hết lòng giúp đỡ cho Đoàn Truyền giáo. Tống Thượng Tiết cũng mời những vị ấy hướng dẫn những buổi cầu nguyện. Ngày cuối cùng Chúa Thánh Linh đã thăm viếng họ trong một buổi cầu nguyện. Các giáo sĩ cũng như các vị Mục sư trong hàng ngũ lãnh đạo đã tan vỡ lòng mình và tiếp nối nhau cầu nguyện xưng tội cùng nhau và ăn năn với Chúa. Như một cuộc chạy đua tiếp sức, hết người này đến người khác liên tục hơn 4 tiếng đồng hồ cũng chưa chấm dứt lửa thiêng liêng. Quang cảnh này làm người ta hồi tưởng quang cảnh trên núi Cạt-mên, Chúa Thánh Linh thôi thúc lòng người bật những tiếng cầu nguyện thiết tha thống hối khiến lửa từ trời giáng xuống toàn thiêu của lễ và cũng thiêu hủy luôn những củi, đá, bụi đất....
Thính giả của buổi truyền giảng sau đó mong Tống Thượng Tiết đừng nói đến huyết của Chúa Giê-su đổ ra trên cây thập tự nữa, nhưng ông không để ý đến đề nghị của họ. Ông vẫn tiếp đưa cao thanh gươm 2 lưỡi cảu Đức Thánh Linh, luôn giảng về lẽ đạo căn bản về sự chuộc tội bởi huyết của Chúa , sự tái sanh… Kết quả rất tốt đẹp là hơn 200 thính giả tin nhận Chúa, cũng có những Mục sư đầu phục Chúa trọn vẹn và thừa nhận rằng chính mình chưa được tái sanh, và hứa nguyện rằng từ đây họ chỉ biết giảng những lẽ đạo về sự sống đời đời.
Kế đó Đoàn Truyền giáo đến Thạch Nha Trang, Mục sư Kế Chí Văn cũng từ Thượng Hải đến để gặp Đoàn. Họ tổ chức một chiến dịch tại Hội Thánh Assembly of God, hệ phái này rất coi trọng vấn đề nói tiếng lạ. Đa số những người nói tiếng lạ tại đây là những kẻ giả hình, mà đã giả hình thì cần phải ăn năn dốc đổ lòng mình để nhận tội, hối cãi và hòa thuận lại với Thượng Đế. Tống Thượng Tiết khẳng định với họ rằng: “Điều mà tội nhân cần không phải là ân tứ nói tiếng lạ, cũng không phải là những ân tứ khác mà là hồng ân của Chúa Cứu Thế. Một tội nhân không đối phó với tội lỗi thì không được ân cứu rỗi. Nếu đến với Chúa chỉ với mục đích xin một ân tứ nào đó là một điều vô cùng nguy hiểm. Thường vì mục đích sai lệch này mà mắc mưu kế của ma quỷ”. Những người đến tham dự Đại hội có một số giáo sĩ Tây phương, vài chục vị ở vùng phụ cận Thạch Nha Trang, các chiến sĩ trong đoàn Cứu Thế Quân. Những người đến tham dự đều được nâng đỡ rất nhiều, họ đã nhận được Chúa Thánh Linh và ra về với lòng nóng cháy gia tăng và niềm tin vào Lời Chúa.
Một cô y tá có lòng yêu mến Chúa đã mời Đoàn Truyền giáo đến hoạt động tại Thái Nguyên. Hội Thánh ở tại đây có trường học, có bệnh viện nhưng tiếc thay tín lý của họ không được thuần chính. Những buổi thờ phượng của Đoàn được tổ chức tại Hội Thánh Cơ-đốc giáo người Hoa. Tống Thượng Tiết đang cư ngụ tại nhà một tín hữu có niềm tin và tín lý thuần túy, nhưng vì ông đang bị ho nên được đưa đến tá túc tại nhà một bác sĩ theo tân phái. Ở đó không được chăm sóc chu đáo lắm nên bệnh ho càng trầm trọng và dữ dội hơn. Sức khỏa ông bị giảm sút rất nhiều. Lúc bấy giờ sức khỏe của ông có thể tượng trưng cho tình trạng thuộc linh của hệ phái nơi ấy. Kết quả của những ngày chiến dịch chỉ mang lại được một vài người y tá tin nhận Chúa, còn những vị lãnh đạo hệ phái tại đây không mấy thích thú. Hội Thánh Hữu Ái tại huyện Bình Định cũng thuộc tân phái. Vị Mục sư tiền nhiệm tại đây sau khi bị các giáo sĩ Tây phương cách chức vì trái đạo. Ông ta đã nổi tánh xác thịt, vẽ nhiều tranh ảnh và tạc nhiều tượng, bán cho tín hữu để thờ trong nhà, thậm chí xúi tín hữu vứt bỏ Kinh Thánh, phỉ báng chân lý! Tuy chưa bớt cơn ho, nhưng Tống Thượng Tiết không màng đến chính bản thân mình nữa. Ông để hết tâm trí vào việc truyền giáo. Vị hiệu trưởng của trường tiểu học của Hội Thánh với thái độ kiêu kỳ đã chống đối mãnh liệt Đoàn Truyền giáo nhưng vị Mục sư quản nhiệm Hội Thánh và giáo sĩ ngoại quốc là những người đầy ơn Chúa. Vị Mục sư tiền nhiệm đã bị cách chức đó cũng có đến nghe. Tống Thượng Tiết dùng sứ điệp những bộ xương khô và những bộ xương nhà để chỉ trích tội lỗi. Nghe Tống Thượng Tiết như chỉ trích chính mình, ông đã đứng lên giữa hội chúng để thừa nhận những tội lỗi tham lam của chính mình và cũng công nhận rằng sở dĩ ông làm Mục sư chẳng qua cũng vì miếng cơm manh áo. Hảng lãnh đạo được Chúa thăm viếng và phục hưng thì tương lai của Hội Thánh Chúa tại Bình Định có hy vọng sáng lạng hơn.
Hội Thánh Bình Giao được các vị Mục sư cũng như giáo sĩ của Nội Địa Hội là China Island Mission gây dựng và chăm sóc nhiều năm nên không bị ảnh hưởng của Tân Thần học và những hệ phái vô tín khác. Bình Giao tiếp giáp với quê hương của Mục sư Tịch Thắng Ma (Pastor Conqueror of Demons Chief), cho nên những Hội Thánh phụ cận là thành quả của nỗ lực của Mục sư Tịch Thắng Ma. Cũng từ lòng yêu thương của Mục sư Tịch Thắng Ma đã để lại cho tín hữu nơi đây một tấm lòng chất phát và trung thành, cho nên về sau cho dù bị chiến tranh tàn phá, nhiều cơn bắt bớ xảy ra nhưng đức tin của họ vẫn vững vàng. Khi Đoàn Truyền giáo đến nơi đây để mở chiến dịch thì các giáo sĩ Tây phương của China Inland Mission (C.I.M) đã đi khắp các vùng phụ cận để phát chương trình và truyền đạo đơn. Với tấm lòng nhiệt thành và khiêm tốn, nhưng tiếc thay trường học ở nơi đây thiếu thốn và giáo dục lạc hậu, không có nhân tài đứng lên lãnh đạo công việc giáo dục tại địa phương cho nên công việc của hội không có được kết quả mong muốn.
Huyện Hồng Động là trung tâm hành chánh dịch vụ CIM tại tỉnh Sơn Tây. Trong vùng có tất cả 38 giáo khu của các huyện, các cấp lãnh đạo đã hẹn với Đoàn Truyền giáo lưu động đến nơi đây để dự đại hội các giáo khu tổ chức 2 năm 1 lần. Khi Đoàn Truyền giáo và Tống Thượng Tiết đến nơi thì đại biểu của 38 giáo khu đã có mặt đầy đủ. Có 33 giáo sĩ Tây phương nhưng về phía người Hoa chỉ có 5 đại diện. Những đại diện của các giáo khu huyện Hồng Động định mở tiệc khoản đãi Đoàn Truyền giáo, nhưng đã bị khước từ. Tống Thượng Tiết nói rằng: “Chúng ta đến đây không vì sự ăn uống và đãi đằng”. Thật vậy, cả con người và tấm lòng của Tống Thượng Tiết đã bị cuốn hút vào công việc truyền giáo. Những vấn đề tiệc tùng, xã giao thì không còn thì giờ đâu để ông nghĩ đến. Nội Địa Hội của khu vực này có trường trung học Phổ Nhuận và một trường Kinh Thánh nên số thính giả đến dự rất đông. Ban tổ chức định mỗi ngày thờ phượng 2 buổi, thì giờ còn lại dành cho đại hội thường niên. Nhưng Đoàn Truyền giáo lại chủ trương 3 ngày đầu hoàn toàn biệt riêng để cầu nguyện và 3 ngày tiếp theo hoàn toàn dành cho thảo luận công việc của Nội Địa Hội. Tống Thượng Tiết khuyên nhủ rằng nếu đại hội không chú trọng đến đời sống tâm linh, không cầu vấn sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh thì thể nào thực hiện được những việc lớn cho Ngài? Trước hết phải được sự thăm viếng, nóng cháy của Đức Thánh Linh, sau đó mới nhận được quyền năng của Ngài để bùng cháy lên và sáng lòe ra… Ý kiến ấy được tiếp nhận và Tống Thượng Tiết là người đảm trách việc giảng dạy. Ông đề nghị ông sẽ giảng bằng tiếng Anh để tiện cho các giáo sĩ Tây phương và ông Lâm Cảnh Khang sẽ là người thông dịch qua tiếng Trung Hoa. Lâm Cảnh Khang cũng là người đồng diễn những ví dụ của Tống Thượng Tiết. Có những lúc Tống Thượng Tiết dùng dây thừng trói Lâm Cảnh Khang để tượng trưng cho sự trói buộc của tội lỗi, khiến cho khán thính giả càng dể hiểu ý nghĩa của sứ điệp. Có một hôm Tống Thượng Tiết giảng về đề tài sự phục hưng của Sa-ma-ri, lấy ví dụ về sự thất bại của Phi-lip để so sánh với sự thất bại của các nhà truyền giáo ngoại quốc. Công việc của Phi-lip cũng đã được báo cáo về Giê-ru-sa-lem rất suông sẻ, hay ho. Công việc của các giáo sĩ ở hải ngoại cũng vậy, được báo cáo về bổn hội, được đăng tải trên các tạp chí. Những bản báo cáo xem ra toàn những thắng lợi vẻ vang. Thật ra công việc của các nhà truyền giáo đang thiếu một điều gì thật quan trọng, đó là quyền năng của Chúa Thánh Linh. Một lần kia Tống Thượng Tiết đã dùng lời nói về cuộc đời nguy hiểm của chính Phao-lô răn dạy đã răn dạy Ti-mô-thê mà so sánh với sóng biển, cơn sóng dữ đó như muốn nhấn chìm con thuyền nhỏ giáo hội. Đặc biệt, một hôm sau bài truyền giảng, tín đồ người Hoa và cả người ngoại quốc chen chúc nhau đứng trước bục giảng để cầu nguyện ăn năn xưng tội, đồng thời cũng cầu xin năng lực và ân tứ Đức Thánh Linh. Hiện tượng này không lấy làm gì làm hiếm hoi hay mới mẻ đối với các giáo sĩ Tây phương. Nhưng chính họ tự làm thì đây là lần đầu tiên. Ngọn lửa phục hưng đã được đốt cháy, lại càng bùng lên mạnh mẽ vô cùng tại nơi đây…
Sau một tuần lễ truyền giảng tại huyện Hồng Động, Đoàn Truyền giáo đáp xe lửa trở về Thượng Hải. Nhưng những con đường đất ở ven Sông Hồng bị ngập lụt sau cơn mưa giông mùa hạ. Đường bị sình lầy, phải chờ nắng lên cho khô ráo xe hơi mới có thể chạy được. Những cộng sự viên đang hoạt động tại phía Nam tỉnh Sơn Tây, dù đã quá mỏi mệt nhưng không thể về được, Tống Thượng Tiết chờ đợi quá lâu nên đã nóng giận, lớn tiếng với người trưởng trạm xe đò công cộng. Nhưng rồi cũng chỉ có thể nằm lại bên lề đường mà ngủ.
Cuối cùng Đoàn Truyền giáo cũng về được đến Thượng Hải. Họ vội vã tổ chức đại hội Phục hưng tại Hội Thánh Bê-tên. Những nhà lãnh đạo Hội Thánh đã dùng danh tiếng Tống Thượng Tiết để thu hút kêu gọi thính giả đến nghe. Tống Thượng Tiết sẽ giảng về sách Đa-ni-ên và sách Công vụ. Ban tổ chức cũng mời 2 diễn giả không thuộc Đoàn Truyền giáo là Mục sư Trần Xùng Quế và Giáo sĩ Tiến sĩ French Oliver. Xuất truyền giảng buổi sáng do Tống Tượng Tiết và tiến sĩ Oliver thay phiên nhau ban bố sứ điệp về vấn đề tín đồ Cơ-đốc giáo có phải trải qua cơn đại nạn hay không, Quan điểm của Tống Thượng Tiết và của tiến sĩ Oliver hoàn toàn trái ngược nhau. Việc này khiến cho Tống Thượng Tiết không vui và cũng khiến cho các nhà lãnh đạo Hội Thánh Bê-tên rất khó xử. Vì vậy trong 3 tuần lễ dạy Kinh Thánh, Tống Thượng Tiết chỉ dạy xong sách Công vụ mà thôi. Như vậy việc làm trong thượng bán niên 1933 xem như kết thúc. Tống Thượng Tiết đã ghi lại bài học trong 5, 6 tháng hoạt động này rằng: “Trong đoạn đường này, Chúa đã hướng dẫn tôi lên núi Cạt-mên. Ngài đã dạy cho tôi thấy đâu là thật đâu là giả, những gì là do tánh xác thịt con người làm ra, những gì do Chúa Thánh Linh hướng dẫn. Đừng nghe những nhóm tiên tri đã được nuôi béo bằng cao lương mỹ tửu của nhà vua, cũng đừng nghe theo những tiếng reo hò làm rúng động đất trời… Nhưng phải yên lặng với niềm tin và với sự hiểu biết tĩnh ngộ, phải cầu xin lửa từ trời giáng xuống. Toàn bộ con người phải được lửa Đức Thánh Linh thiêu hủy, khiến cho cái tôi phải hoàn toàn được toàn thiêu. Như vậy mới hy vọng nghe được Lời ấn chứng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Chỉ có sức nóng của lửa Thánh Linh mới có thể khiến cho thành kiến của con người bị thiêu rụi, làm cho lòng người hiệp một và hiểu được những sự dung hòa chân thật”.
Sau này khi viết về giai đoạn của trại hè Thượng Hải, ông kết thúc rằng: “Chiến dịch ở Bắc phương kéo dài 5 tháng, chưa bao giờ tôi làm việc ở một chỗ lâu dài như thế này. Thường thường, mỗi 3 tháng hoạt động thì có một thời gian ngắn nghỉ ngơi vì sức khỏe của tôi không thể chịu đựng lâu hơn. Nhưng lần này kéo dài thêm 2 tháng, thời tiết lại quá lạnh, chân tay tê nhức. Thời khóa biểu vẫn như lệ thường, mỗi ngày 3 suất. Lúc hoạt động ở Bắc phương, tôi không quen thức ăn trên ấy nên sức khỏe đã giảm sút đi rất nhiều. Một lần nọ lúc hoạt động tại Sơn Tây, tôi yếu lắm nên không còn đứng vững lâu để giảng. Tôi phải tựa mình vào bục giảng, 2 chân thay phiên nhau chống đỡ cho thân hình khỏi ngã. Đôi chân tôi nhức nhói và lưng tôi cũng bắt đầu đau đớn, khó mà cố gắng để đứng cho vững. Tôi cũng đã thử ngồi để giảng, nhưng ngồi thì lưng lại càng đau đớn hơn, thật là đến lúc sơn cùng thủy tận! Tôi không muốn chăm về xác thịt, nên chỉ muốn liều mình rao truyền Tin Lành của thập tự giá. Nhưng than ôi! Cũng có lắm kẻ chống đối, công kích tôi thậm tệ!”
CHƯƠNG 38
THỜI KỲ CUỐI CÙNG HỢP TÁC VỚI
BÊ-TÊN (1933-1934)
I. TẠI HOA BẮC
Một buổi họp của Đoàn Truyền giáo lưu động được triệu tập tại trụ sở trung ương hệ phái Bê-tên để điều chỉnh tổ chức và công việc trong những chiến dịch. Trong những nơi Đoàn đến truyền giảng có nhiều thiếu nữ trẻ đến nghe và thích sinh hoạt, nhưng trong Đoàn lại có những thanh niên trẻ chưa có gia đình. Sợ rằng sẽ có ảnh hưởng không tốt đến công việc chung nên hội đồng quyết định để lên Thượng Hải 2 người họ Lý và Nhiếp trẻ tuổi còn 3 người kia đi sinh hoạt lưu động với Đoàn. Về sau Lý Đạo Vinh sang Hoa Kỳ học nhạc tại chủng viện Moody còn Nhiếp Tử Anh về làm việc cho Hội Thánh Bê-tên nên Đoàn Truyền giáo lưu hành chỉ còn lại 3 người là Kế, Tống và Lâm. Trước khi tổ chức chiến dịch lần thứ 2 tại vùng Hoa Bắc, lợi dụng thời gian chưa lên đường, Đoàn tổ chức một buổi truyền giảng hướng ngoại ngắn hạn tại Xoa Châu, trước khi trở lại Thượng Hải.
Trong buổi họp ấy cũng có những điều chỉnh khác. Thứ nhất, về tạp chí Thánh Khiết Chỉ Nam, những bài giảng của Tống Thượng Tiết tối đa chỉ đăng 2 bài trong một số. Thứ nhì, những chiến truyền giảng hay giảng phấn hưng sau này phải được tổ chức 1 ngày 4 buổi để cho 2 người chia đều công việc.
Đối với những điều chỉnh này thì Tống Thượng Tiết có ý kiến: “Những ấn phẩm về tôn giáo không phải là môi trường để chúng ta thi thố tài năng. Lúc trước trong tạp chí Thánh Khiết chỉ Nam có đăng nhiều bài viết của chúng ta mục đích không phải đề khoe trương tài năng. Tuy vậy, bây giờ đã hạn chế lại số bài viết như vậy thì phải trau dồi thêm về phẩm hơn là chú trọng đến lượng. Những ngày đầu, chúng ta hiệp một nhau trong công việc nên rất thoải mái, dễ chịu. Nhưng bây giờ sắp xếp theo lối này, vô tình chúng ta đã tạo nên cơ hội để tranh giành ảnh hưởng, gây nên chia rẽ nội bộ. Công việc của Đoàn không còn dễ dàng như xưa, nhất là khi chúng ta nhận lãnh ân tứ tương tự thì lại càng khó mà có thể làm việc chung nhau nữa. Như trường hợp Chúa đã cho phép Ba-na-ba và Phao-lô phân rẽ nhau, như vậy ngày tôi phải rời khỏi Bê-tên không còn xa nữa”.
Bàn thảo xong, 3 người trong Đoàn đến tỉnh Trương Gia Khẩu thuộc tỉnh Sát Hai Nhi. Ba ngày đầu, Đoàn dùng Hội Thánh Hiệp Đồng làm địa điểm chính để truyền giảng, ngày thứ tư tại trụ sở Cứu Thế Quân, sau đó Đoàn đến Hội Thánh Mỹ Phổ. Tại đây đức tin của Giáo hội có phần lệch lạc, tuy ở vùng biên giới hẻo lánh nhưng phe tân phái đã thừa cơ xâm nhập. Có một giáo sĩ Tây phương một mình đơn chiếc nơi đây, nhưng biết quên mình để yêu thương người lân cận. Ông ta đã lấy kinh nghiệm bản thân sống bằng đức tin mà chia sẻ cùng Tống Thượng Tiết, khiến ông được khích lệ vô cùng.
Một hôm Tống Thượng Tiết đang cầu nguyện chữa bịnh một bà lão đã bị cụp xương sống, nhận thấy bà có đức tin nên ông đã lớn tiếng bảo bà đứng dậy. Bà ta liền đứng dậy. Nhưng giáo sĩ ngoại quốc kia thấy thế tưởng rằng bà ta chỉ được sự kích thích tạm thời mà đứng dậy đó thôi, nên đã đến đỡ bà, cũng vì vậy mà bà này không thể đi tới nữa, phải ngồi xuống lại. Tống Thượng Tiết liền lãnh hội một bài học rằng những kẻ tin thì không nên mang ách chung với kẻ chẳng tin, để khỏi bị cản trở công việc và làm cho công khó bị hư hoại.
Cũng có một người kia làm chứng cho Tống Thượng Tiết nghe từng trải về ân cứu rỗi của Chúa dành cho mình, khiến cho ông khâm phục. Nhưng không ngờ người này đã dùng tôn giáo và khẩu tài để lừa bịp nhiều nơi. Những điều mà ông ta làm chứng là không đúng sự thật mà hoàn toàn do ông ta bịa đặt ra. Qua chiến dịch tại Trương Gia Khẩu, Tống Thượng Tiết đã lãnh hội được thêm một bài học: Đừng nhẹ dạ nghe mà hợp tác với người khác và cũng đừng dễ dàng bị thuyết phục bởi những lời lừa dối, cũng không đồng công hợp tác với kẻ chẳng tin hay đạo đức giả.
Đoàn tiếp tục cuộc hành trình đến thành phố Qui Hóa ở tỉnh Tuy Viễn, hơn 150 nhà lãnh đạo của Nội Địa Hội (China Inland Mission) đều đến tham dự. Ở vùng Tây Bắc nơi mà thổ phỉ đang hoành hành dữ dội, một cuộc hội họp 1 ngày 4 suất là một diều khó kiếm. Vả lại những người trong Đoàn cũng không đồng tâm khiến cho tinh thần của Tống Thượng Tiết bị tổn thương rất nhiều. Điều này cũng ảnh hưởng đến công việc Chúa và vô tình tạo nên những khoảng trống sơ hở khiến cho ma quỷ có thể xen vào. Một việc hiểu lầm đã xảy ra: Có một nữ tín đồ tìm đâu được địa chỉ của thân sinh Tống Thượng Tiết. Bà gởi trực tiếp tặng cho cụ một số tiền 300 đồng. Những người trong Đoàn biết được việc này tưởng đâu là do yêu cầu của Tống Thượng Tiết, nên họ rất bất mãn. Vì theo điều lệ của Đoàn thì tất cả tiền người ta dâng hiến hay biếu tặng đều sung vào quỹ của Đoàn. Tống Thượng Tiết không ngờ những mũi tên bắn ngầm nên đã yêu cầu mở một cuộc điều tra công khai. Kết quả cho thấy Tống Thượng Tiết không hề cho bà tín đồ đó địa chỉ của thân sinh mình. Sự hiểu lầm này coi như đã được giải tỏa. Tống Thượng Tiết tiếp tục tìm hiểu thêm mới biết rằng lúc ấy Hội Thánh Hưng Hóa muốn cho Mục sư Tống Học Liên hưu trí, nhưng cụ vẫn tình nguyện hầu việc Chúa không lương. Chúa đã đặc biệt cảm động lòng bà tín đồ đó gởi tiền giúp cụ.
Tại Qui Hóa có một nhà máy do cơ quan Gia đình Chúa Cứu Thế thiết lập, nhà máy thâu nhận những tín đồ thất nghiệp để họ có cơ hội vừa làm việc, vừa đi truyền giảng. Khi Tống Thượng Tiết đến thăm xưởng đó thì thấy rất nhiều thiếu sót. Ý nguyện ban đầu là giúp cho những người có tâm chí hầu việc Chúa có cơ hội hầu việc Chúa, nhưng rồi từ từ đã biến thành một nơi để mưu sinh kiếm sống. Tống Thượng Tiết đã thẳng thắn khuyên nhủ họ: “Nếu quí vị chú trọng đến tiền bạc, chắc chắn sau này sẽ thất bại!”. Quả nhiên về sau cơ xưởng này đã bị đóng cửa.
Các Hội Thánh tại thành phố Bao Đầu đã liên kết nhau để mời Đoàn Truyền giáo đến hoạt động. Ba nhà truyền giáo ở nhờ trong trụ sở của Nội Địa Hội. Thính giả của những buổi truyền giảng có khoảng chừng 1, 2 trăm người, trong số đó có một bà quý phái, sang trọng. Bà nghe rất chăm chú với thái độ khiêm nhường và trung tín. Sau hỏi ra mới biết là bà ta đang gặp nhiều điều khốn khổ, nên muốn đến cùng Hội Thánh để tìm nguồn an ủi.
Cũng có một vị nữ tín đồ khác đã làm quen với một người bạn trai mới nhập vào Hội Thánh và 2 người đã thành hôn với nhau. Về sau mới biết sở dĩ anh chàng này gia nhập chỉ là để lấy vợ. Toại nguyện rồi chàng ta bỏ cả vợ lẫn cả những buổi thờ phượng. Sau chàng ta lại làm quen và cưới thêm một người vợ thứ nữa. Người chị em này quá buồn cho tình cảm bất trung và gian trá. Bà đã tìm quên trong khói thuốc, men rượu và những canh bạc thâu đêm… Nhưng sầu chưa khuây giải thì tai họa đã tới, con gái bà lại bỏ nhà ra đi. Bà ta không còn tìm đâu ra lẽ sống nên đã toan tính kết thúc cuộc đời. Đang dự một buổi thờ phượng, bà được nghe tiếng Chúa: “Tuy ngươi đã quên Ta nhưng Ta chẳng quên ngươi đâu!”. Bà ta tỉnh ngộ, quyết tâm quay trở về nhà Cha. Bà tìm được niềm an ủi từ trên cao.
Dân chúng thàng phố Xát-la-chi có thủ tục là bỏ rơi những đứa con gái đầu lòng ở vệ đường. Hội Nội Địa tại đây đã thành lập một cô nhi viện để chuyển đi nhặt những hài nhi này về nuôi dưỡng. Những cô gái này ở trong viện, lớn lên được học một nghề như may vá để nuôi thân. Rất tiếc những tín hữu Cơ-đốc nơi này đã để đa số những cô gái ấy lập gia đình với những người chưa tin Chúa. Khi Đoàn Truyền giáo Bê-tên đến thăm, cô nhi viện còn lại khoảng vài chục cô, đa số chưa nếm được ân cứu rỗi của Chúa. Tín hữu toàn vùng đến dự thờ phượng có khoảng 5, 6 trăm người. Tín hữu đa số có niềm tin vững vàng và cũng có những cô bé cô nhi nhận được sự cứu rỗi. Nhưng họ vốn là những người đã quen sống trong sự cấp dưỡng của viện, quen ỷ lại, không có lòng tin và không hoàn toàn nương cậy vào Chúa.
Một hôm 3 vị Kế, Tống và Lâm cưỡi lạc đà đến viếng mộ những giáo sĩ ngoại quốc đã bị ngộ nạn vào năm Canh Tý. Đoàn Truyền giáo đi ngang qua Bắc Kinh về đến thành phố Bảo Định, đúng vào dịp trại hè dưỡng linh lần thứ nhì. Mỗi ngày trại nhóm thờ phượng 4 suất, thính giả rất đông xin được đặt tay cầu nguyện. Hai ông Mục sư Kế Chí Văn và Tống Thượng Tiết phải quy định giờ giấc để luân phiên chăm sóc. Cũng nhờ đó mà nhiều người được phục hưng và họ cũng đã mạnh dạn đứng lên làm chứng trước công chúng. Một vị nữ giáo sĩ Tây phương đã viết rằng: “Đây là một việc chưa bao giờ xảy ra tại Bảo Định, ai ai cũng mong mỏi được nghe những người trong Đoàn Truyền giáo giảng. Lòng họ như luôn sẵn sàng được Đức Thánh Linh thăm viếng đốt cháy”.
Sau đó Đoàn đến Phủ Chương Đức lần thứ nhì. Lần trước chỉ có chừng 200 thính giả đến tham dự những buổi truyền giảng. Lần này con số lên 1.000 người. Tống Thượng Tiết thấy những người đến dự nghe đa số là phụ nữ và trẻ em nên đề nghị rút từ 4 suất 1 ngày xuống còn 3, Tống Thượng Tiết giảng 2 bài và Mục sư Kế Chí Văn giảng 1 bài. Thoạt đầu Mục sư Kế Chí Văn không đồng ý, nhưng sau thấy hợp lý. Quả nhiên, truyền giảng như vậy có kết quả hơn nhiều. Đúng như lời Tống Thượng Tiết tuyên bố: “Lời Chúa truyền ra không cốt ở nhiều hay ít, chỉ cần nhắm đúng mục tiêu để Chúa đi thẳng vào lòng người. Một lời đầy ơn cũng làm cho lòng người được tỉnh thức. Vị Mục sư sở tại đã được phấn hưng ở kỳ Đại hội trước nay đã có một tiến bộ rất lớn. Ông đã phát huy khả năng và giúp cho công tác ngắn hạn này có một kết quả sâu đậm và bền lâu.
II. ĐẾN TỈNH HỒ NAM
Trên đường đi từ Phủ Chương Đức đến tỉnh Hồ Nam, Mục sư Kế Chí Văn yêu cầu Tống Thượng Tiết tự “khui quan tài” của chính mình (có nghĩa là nên tự thú nhận những lỗi lầm). Ông nói rằng Tống Thượng Tiết có những khuyết điểm sau đây:
(1) Lẽ đạo nêu ra cội rễ của tội ác là đã truyền giảng quá ít,
(2) Tham lam tiền bạc,
(3) Chỉ đem người khác đến với mình
Tống Thượng Tiết đã lần lượt trả lời 3 điểm đó như sau:
(a) “Tôi chỉ khuyên lơn và khích lệ tín hữu luôn luôn nhờ cậy Đức Thánh Linh để tiêu trừ tư dục của xác thịt,
(b) Nếu cho tôi là tham tiền bạc thì tôi chưa từng gian lận của ai. Tôi cũng chưa từng xin tiền một ai. Những gì Cha trên trời ban cho và những gì anh chị em biếu xén, tôi cũng đều xung vào quỹ của Đoàn, tôi chưa từng hưởng thụ riêng tư một điều gì, một vật gì.
(c) Còn nói đến việc tôi chỉ chăm đem người khác về cho riêng tôi thì nên xét lại, Chúa cho tôi làm việc hết mình hơn so với người khác. Tôi là người dấn thân vào Đoàn Truyền giáo lưu động, thì làm sao tôi đưa dẫn người khác về cho riêng tôi?” Để cho hài hòa với những người bạn đồng công, Tống Thượng Tiết đã phát biểu: “Chúa ban cho tôi dư được mặt này thì tôi có những mặt thiếu hụt khác. Nhìn vào công việc của tôi thì thoạt đầu nhiều người đã cho rằng tôi sẽ thất bại. Sự thật tôi chỉ biết vâng phục Chúa đi ra gieo giống và tưới nước. Tôi chỉ chăm nhìn vào Đức Chúa Trời để nhờ Ngài làm cho nó lớn lên hầu cho những người đến sau tôi được vui mừng làm công việc thâu gặt lúa vào kho. Tôi tự nhủ rằng mình phải làm công việc thật rất cẩn thận và kiến tạo trên nền tảng đã dựng để có thể làm cho mình và các bạn đồng công được vững vàng khi đứng trước tòa thử nghiệm của Chúa Cứu Thế. Đức Chúa Trời là Đấn dò xét trong tâm can và thử nghiệm trong lòng người”. Đó là đức độ khiêm nhường, hiền dịu của Tống Thượng Tiết trước sự khe mắt chỉ trích.
Khi đến Trường Sa thì cả Đoàn Truyền giáo ngụ tại tư thất Mục sư Trần Xùng Quế. Đoàn tổ chức 10 chiến dịch truyền giảng. Phân chia các phần hành như sau: Mục sư Kế Chí Văn giảng giáo lý cho các sinh viên thần học vào buổi sáng, còn ban đêm thì giảng bồi linh cho tín hữu tại thánh đường hệ phái Giám lý, Mục sư Tống Thượng Tiết thì ban ngày dạy Thánh Kinh tại trường Giám lý, ban đêm giảng phấn hưng. Thính giả tại đây có trình độ học vấn khá cao, vì trước đây Hội Nội Địa đã từng thiết lập một trường Kinh Thánh. Thường có những vị Mục sư danh tiếng và những nhân vật có địa vị trong xã hội đến hướng dẫn và giảng dạy trong những buổi thờ phượng. Sau khi ông Hudson Taylor qua đời, Hội Nội Địa đã lập một bệnh viện mang tên ông để kỷ niệm. Ngoài ra Hội cũng mở những trường học của Hội và những trường của tỉnh... Lúc đó nội bộ của Đoàn Truyền giáo lưu động có nhiều sự xích mích. Bên ngoài lại có nhiều lời công kích. Tống Thượng Tiết cẩn thận dè giữ, kềm lòng một mực kính sợ Chúa. Mỗi khi có buổi nhóm ông đều khẩn thiết cầu nguyện nên Chúa ban cho ông ấn tứ rất dồi dào. Những ngày đầu nhóm các trưởng lão không hoan nghênh ông. Nhưng sau lại ưu ái mời ông đến truyền giảng cho các sinh viên, con số đến nghe truyền giảng cả ngàn người. Đêm dầu đã có khoảng 3, 4 trăm người tin nhận Chúa, qua ngày sau số người đến nghe lại càng đông hơn. Hội trường không còn chỗ để chứa thính giả, Mục sư Trần Xùng Quế thật vui mừng và được yên ủi lớn. Một nữ giáo sĩ thuộc Hội Giáo sĩ Đức hợp tác với Hội Nội Địa, cô đáp xe lửa từ Thượng Hải đến Trường Sa. Bác sĩ Ithel thuộc bệnh viện Hudson Taylor ra ga đón cô. Vừa gặp mặt, bác sĩ đã hối thúc cô cứ để hành lý lại ga, phần cô nên lên ngay xe kéo đến dịa điểm Tống Thượng Tiết đang giảng phấn hưng kẻo đến trễ thì không còn chỗ để ngồi. Vị nữ giáo sĩ ấy đã quên cả mệt nhọc và đến ngay hội trường. Trên đường, bác sĩ Ithel cho vị nữ giáo sĩ này biết rằng từ ngày Đoàn Truyền giáo lưu động Bê-tên đến đã biến Trường Sa thành một nơi “mưa gió”. Chủ để của sứ điệp hôm ấy là “Người con trai hoang đàng”. Câu chuyện này dĩ nhiên là rất quen thuộc với vị nữ giáo sĩ, nhưng cô chưa bao giờ được nghe với một phương pháp giảng dạy như vậy. Diễn giả là Tống Thượng Tiết qua sụ thông dịch của ông Lâm Cảnh Khang. Trong sứ điệp hôm ấy, 2 người như 2 diễn viên diễn lại hoạt cảnh của câu chuyện “Con trai hoang đàng” và nhạc đệm là bài “Hãy về nhà Cha”. Tống Thượng Tiết giảng với tất cả năng lực nên mồ hôi ướt đẫm cả áo. Bài giảng vừa đầy quyền năng, vừa thuyết phục, số người nghe xong tự động đi lên trước tòa giảng tin nhận Chúa Cứu Thế rất đông. Ngay khi ấy một nữ giáo sĩ khác của Bê-tên một lúc gửi 3 điện tín cho Mục sư Kế Chí Văn về Thượng Hải gấp để điều chỉnh lại nội bộ của Đoàn Truyền giáo lưu động. Trước khi lên đường, Mục sư Kế Chí Văn đã cam kết là bằng mọi cách ông sẽ hợp với Tống Thượng Tiết, nhưng Tống Thượng Tiết trả lời rằng Đoàn Truyền giáo này đã được dâng cho Chúa thì phải cải tổ lại cho xứng đáng, bằng không ông sẽ rời khỏi sinh hoạt của Đoàn.
Khi Mục sư Kế Chía Văn đã đi rồi, thì 2 họ Tống Thượng Tiết, Lâm Cảnh Khang đi đến Thường Đức. Từ đó về sau 2 họ Tống Thượng Tiết, Kế Chí Văn ít còn có dịp gặp nhau nữa.
Những ngày đầu ở Thường Đức, Tống Thượng Tiết, Lâm Cảnh Khang làm việc tại Hội Thánh Khiết của Gia-nã đại. Nhà thờ thì nhỏ, người đến tham dự cũng rất ít. Nhưng sau có các nhóm của hệ phái Giám lý và Trưởng lão đến tham gia, nên số thính giả tăng lên nhiều. Công việc của 2 vị Tống, Lâm vừa chấm dứt tại Thường Đức thì họ nghe tin là Đoàn Truyền giáo Bê-tên tổ chức một chiến dịch tại Lưỡng Quảng là Quảng Đông và Quảng Tây, do Mục sư Kế Chí Văn là trưởng đoàn. Họ cũng thôi thúc Lâm Cảnh Khang trở về Thượng Hải. Trong lúc ấy, 2 ông Tống Thượng Tiết, Lâm Cảnh Khang đã xếp đặt đi đến thành phố Hằng Dương. Hai ông phải làm việc cho xong ở Hằng Dương rồi mới có thể tuân theo chỉ thị mới được. Lòng buồn bã nhưng riêng Tống Thượng Tiết tin rằng kế hoạch cải tổ này là do nhóm lãnh tụ chứ Mục sư Kế Chí Văn đã hứa chắc với Tống Thượng Tiết là sẽ không tán đồng việc này.
Trước khi 2 họ Tống, Lâm đến Hằng Dương họ trở lại nhà Mục sư Trần Xùng Quế tại Trường Sa và ở lại đây một ít lâu. Cũng trong thời gian này ông Tống nhận được thư của giáo sĩ Hugle mời ông về Thượng Hải để dọn nhà. Mục sư Trần Xùng Quế đề nghị với ông nên trả lời là kỳ đại hội tại Hằng Dương đã chuẩn bị xong nên phải lo việc Chúa trước, còn việc riêng thì hạ hồi phân giải.
Khi ông Tống và Lâm đến Hằng Dương thì không một ai ra đón ở ga xe lửa mặc dù đã có điện tín báo trước. Hai ông phải tự tìm đường đến Hội Thánh. Khi đến nơi mới vỡ lẽ ra rằng mấy ngày trước có 2 người khác đến, tự xưng là Tống và Lâm. Hai người này đã tổ chức đại hội cho những làng phụ cận Hằng Dương. Đại hội đã xong, các tín hữu đã tiễn đưa 2 vị ấy xong rồi. Họ đâu có ngờ 2 ông Tống, Lâm thật chưa tới nên chẳng ai ra đón tiếp!
Ba giáo phái ở Hằng Dương hợp tác với nhau tổ chức Đại hội Liên hiệp. Mỗi lần nhóm lại, số thính giả lên đến 7, 8 trăm người. Những vị trong ban lãnh đạo của các giáo phái nghe rằng Mục sư Kế Chí Văn không đến được nên thất vọng. Họ lại còn nghe đồn đãi rằng Tống Thượng Tiết là người có cảm tình riêng tư, họ lại càng lo âu hơn nữa. Tuy vậy Đại hội tại Hằng Dương lại có kết quả thật mỹ mãn. Một giáo sĩ của giáo phái Episcopal, Mục sư G.R.Wilson có viết một báo cáo như sau: “Tống Thượng Tiết đã đem quyền lực phục hưng như một cơn gió lốc đến với chúng tôi. Người Trung Hoa cũng công nhận đó là công việc phi thường đến từ Đức Thánh Linh. Trong suốt tuần lễ Đại hội đó, mỗi ngày 2 suất, mỗi suất giảng hơn 2 giờ đồng hồ. Ông đã giải thích thật cặn kẽ những chương Kinh Thánh, với những câu chuyện bi thương, với những lời tán tụng vui mừng như cuồng phong, như nước lũ chảy xiết va vào ghềnh đá bắn ra tung tóe. Ông cũng thêm vào những động tác sinh động, những câu chuyện trào phúng chua chát, những dí dỏm nhẹ nhàng, gây cho thính giả một ấn tượng mạnh mẽ và một sự cảm động sâu xa. Những động tác của Tống Thượng Tiết cũng rất linh động. Khi thì trên bục giảng ông diễn tả ý tưởng của mình với cả những bước đi, bước nhảy. Khi thì dùng phấn viết lên bảng những ý tưởng trừu tượng. Những động tác của ông lắm lúc cũng pha lẫn những khôi hài. Mục đích chính là diễn tả sống động câu chuyện Kinh Thánh. Đặc biệt khi Tống Thượng Tiết cầu nguyện, ông đã cầu nguyện như dốc đổ cả năng lực, cả tính mạng mình để trò chuyện với Thượng Đế. Toàn bộ sứ điệp của ông vừa xong, chúng tôi đều cảm thấy mình đang tại điểm cao tột đỉnh. Ai nấy đều thỏa dạ chung một tiếng tán mỹ khoái lạc: Đó là một khải thị thật sự, một năng lực chắc chắn cảm động lòng người không thể nghi ngờ được.
Nghe Tống Tiến sĩ giảng chúng tôi đã rút ra được những bài học nào:
Thứ nhất, Tống Thượng Tiết đã khiến cho lời Thánh Kinh thật sự là Lời Sống. Khi nghe Tống Thượng Tiết giảng về Ê-xê-chi-ên chương 37, chúng tôi khó có thể quên được. Hai tay ông cầm 2 khúc xương khô (tượng trưng cho 2 vị giáo hữu đã chết khô), ông lại đập 2 khúc xương khô vào nhau nghe đôm đốp (tượng trưng cho 2 vị đã chết khô mà còn tranh giành danh lợi, địa vị), Ông cất tiếng hỏi lớn rằng: “Xương khô còn có thể nghe được tiếng nói của Thượng Đế không?”. Rồi ông cũng tự trả lời lớn tiếng rằng: “Cám ơn Chúa chúng nó nghe được, một Giáo hội chết cũng có thể nghe được tiếng của Đức Chúa Trời, miễn là lời truyền ra quả thật là của Thượng Đế!”
Thứ nhì, Tống Thượng Tiết đã khiến những tín hữu nguội lạnh, muốn chùn bước được trở lại nóng cháy với Chúa. Ông lấy hình ảnh một người bộ hành bị lọt vào tay kẻ cướp trêm đường về Giê-ri-cô. Người này có tấm lòng tin vào Lời Chúa trong Thánh Kinh nhưng sự cầu nguyện của tín hữu ấy đã bị ma quỷ cướp giật, còn chính người ấy thì bị nó đánh đập dở sống dở chết, ông hỏi: “Nhưng tại sao ma quỷ không đánh cho chết hẳn?”. Và tự trả lời: “Vì một tín hữu nửa sống nửa chết ma quỷ còn có thể sử dụng được, nên những Cơ-đốc nhân có sự sống thật phải tìm ra phương cách để giải cứu những tín hữu dở sống dở chết để họ lấy lại được niềm tin cũng như tìm lại được một đời sống cầu nguyện!”
Thứ ba, Tống Thượng Tiết cũng đã thôi thúc chúng tôi quyết tâm và nóng lòng đi theo Đấn Cứu Thế. Ông đã hướng dẫn chúng tôi đi lên núi của 8 phước lành. Tám phước lành tượng trưng cho tám bước của Chúa Cứu Thế ở trần gian từ lúc sanh ra cho đến lúc bước lên đồi Sọ. Bước lên được một bước thì có lời kêu gọi khuyến khích hãy bước thêm một bước nữa, đồng thời có những bài hợp xướng khuyến khích tiến bước thêm thấu vào lòng người. Cuối cùng khi đến đỉnh cao là vì sự công bình mà bị bắt bớ. Bỗng nhiên chiếc bảng đen được cất khỏi và cây thập tự để hiện ra. Tống Thượng Tiết lớn tiếng hỏi hội chúng: “Chúng ta có thể đi theo Chúa đến đồi Gô-gô-tha chăng?”Chúa Giê-su ôi, xin Ngài cho chúng con tấm lòng khao khát bước theo Ngài không chùn bước, không mệt mỏi!”
Khi Mục sư Wilson kể những câu truyện trên, những hình ảnh ấy vẫn như còn rõ nét trong trí nhớ của ông, gương mặt ông sáng rực như đang thấy những gì đang diễn ra trước mắt. Cho đến 20 năm sau viết lại hồi ký ông có ghi lại: “Sự truyền đạt chân lý của Tống Thượng Tiết thật có quyền năng và thuyết phục. Cho đến hôm nay, những hình ảnh và lời giảng của ông vẫn còn lung linh trong ký ức tôi. Cả những bài đoản ca, hợp xướng vẫn còn in sâu trong tâm khảm tôi. Đặc biệt có một chuyện tôi cũng không sao quên được. Một buổi chiều, Tống Tiến sĩ mời tất cả những người muốn thổ lộ tâm sự có thể đến nhà ông ở trọ. Có 3 cộng sự viên người Trung Hoa mời tôi cùng đi với họ. Khi gặp ông thì 3 vị đó thổ lộ tất cả tâm tình cùng Tống Tiến sĩ. Tống Thượng Tiết theo dõi và ghi chú vào một quyển sổ khá lớn. Sau đó ông cứ coi đó, từng việc một mà cầu thay cho họ. Khi ông cầu nguyện, 2 dòng nước mắt tuôn trào trên má, lòng dốc đổ cầu thay, ông xin quyền lực thập tự giá của Chúa Cứu Thế với hành động của Chúa Thánh Linh khiến cho hết thảy chúng ta chiến thắng tội lỗi...”
Chiến dịch truyền giảng và phục hưng tại Hằng Dương chấm dứt. Lòng Tống Thượng Tiết có một ưu phiền lớn nên đã viết thư đến các Hội Thánh ở Tốc Kinh, Thiên Tân, Ôn Châu, Yên Đài... để nói rằng ông sẽ rời khỏi tổ chức Đoàn Truyền giáo Bê-tên để hoạt động cho tự do hơn. Ông cũng nhấn mạnh hiện nay ông chưa có một kế hoạch, cũng không có một chương trình gì chắc chắn. Thậm chí gia đình ông rồi cũng chẳng biết sẽ ở nơi nào!
Khi đi ngang qua Trường Sa để về Thượng Hải, những người đồng hành chỉ còn lại duy nhất một người đồng công trung thành ấy là người thông dịch Lâm Cảnh Khang. Khi về đến trụ sở chính ở Bê-tên, không ai dám đến gần Tống Thượng Tiết, vì sợ ảnh hưởng không tốt đến tương lai của họ. Tống Thượng Tiết đang ở trong tình trạng mịt mờ như Áp-ra-ham khi xưa rời khỏi Cha-ran. Đi mà không biết mình sẽ đi về đâu. Nhưng ông biết rằng ý chỉ của Chúa luôn là toàn hảo và tuyệt mỹ. Chắc chắn Ngài sẽ không đối xử tệ với tôi tớ trung kiên của Ngài. Tống Thượng Tiết nhờ Mục sư Than mướn một căn phòng 25 đồng 1 tháng và lập tức phải dọn nhà về nơi trọ mới. Trong khi dọn nhà, Đoàn cử một nữ giáo sĩ, cô Hồ Tuân Lý đến để kiểm soát. Cô ta chận giữ lại tất cả những thư từ của Tống Thượng Tiết, kể luôn cả những thư riêng, cả những bức thư của gia đình! Cô ta ra lệnh cho Tống Thượng Tiết phải mở hết rương hòm để kiểm soát. Hàng chục ngàn bức thư bị tịch thu cho là sở hữu của Đoàn! Cô ta phải gọi 1 chiếc xe hàng đến để chở đi!
Những nhà lãnh đạo Bê-tên không cho một ai đưa tiễn Tống Thượng Tiết. Chỉ có một mình Lâm Cảnh Khang đại diện đi theo xe để tiễn đưa người bạn đã từng hợp tác đắc lực với Đoàn hơn 3 năm.
Trong hồi ký Tống Thượng Tiết viết: “Hồi tưởng lại quá khứ, tôi thấy bàn tay thiêng liêng hồng ân Chúa hướng dẫn. Trong 3 năm đó Chúa đã huấn luyện tôi, giữ gìn tôi, không để một tai họa nào thình lình vụt đến hại tôi. Chúa đã đỡ tôi cho đủ lông đủ cánh mới khuấy động cái tổ chim. Và Ngài đã xòe ra đôi cánh vững chãi để dạy tôi bay, đỡ nâng tôi để tôi không phải té ngã và đuối sức”. Mục sư Kế Chí Văn cũng nói rằng chính Tiến sĩ Tống Thượng Tiết là người đã làm cho sức mạnh của Đoàn Truyền giáo được đầy đủ, và Đoàn Truyền giáo đã mở cửa truyền giảng cho Tống Thượng Tiết. Về phương diện con người mà nhìn, thì lời đó là đơn sơ, nhưng diều trọng yếu là sự quan hệ của 2 nhân vật này.
CHƯƠNG 39
CHIẾN ĐẤU MỘT MÌNH TẠI
NĂM TỈNH TRUNG HOA (1934)
Sau khi rời chức vụ trong Đoàn Truyền giáo Bê-tên. Phải chia tay với những người bạn đồng công sớm tối có nhau trong công trường của Chúa, lòng Tống Thượng Tiết dĩ nhiên có những nỗi buồn khó tả. Dọn đến nơi cư ngụ mới, ông không có việc làm. Suốt ngày phải ở trong nhà lại càng bội phần buồn bực. Chẳng bao lâu, Hội Thánh Phước An Đường thuộc Phước Châu mời Tống Thượng Tiết đến ban phát Lời Chúa vào ngày Chúa nhật. Công việc này đã phá tan được cái tĩnh lặng của những ngày không việc làm của ông. Người đến tham dự khoảng 2, 3 trăm, có 63 người được Chúa thăm viếng, đa số là những người chưa biết Chúa. Mọi chi phí của Hội Thánh đều do một phú hộ đảm trách. Dâng tiền cho Chúa nhưng người đó cứ tiếp tục sống trong tội lỗi, nên Tống Thượng Tiết thật vô cùng đau xót.
Từ khi chia tay với Bê-tên, Tống Thượng Tiết mới được an ủi. Và nơi đây là công trường đầu tiên của ông. Kế đó Tống Thượng Tiết đến Hồng Đức Đường, số thính giả đến dự được 4, 5 trăm người. Ông hoạt động tại đây một tuần lễ, số người đến dự càng ngày càng đông. Kết quả có 104 người tin nhận Chúa. Tiếp theo, Hội Truyền giáo Liên Hiệp Phấn Tiến thuộc Thượng Hải mời Tống Thượng Tiết làm diễn giả cho 3 ngày truyền giảng mùa Xuân tại Cảnh Lâm Đường. Số người đến dự nghe lên đến cả ngàn. Sau đó ông giảng tại Thanh Tâm Đường, có hơn 200 học sinh quyết tâm theo Chúa. Cha Thiên Thượng như đã mở đường cho ông từng bước và đã chuẩn bị rất chi tiết cho Tống Thượng Tiết cảm thấy thật an lòng cho những ngày hầu việc Chúa tự do sắp tới. Danh tiếng của Tống Thượng Tiết bắt đầu lan rộng, bất cứ ông đi đến đâu, những người đến dự nghe cũng rất đông đúc. Hội Thánh như một biển người trong những ngày ông truyền giảng. Có những người muốn có chỗ ngồi đã phải đến sớm trước 2,3 giờ đồng hồ. Nghe xong một suất thì nhờ bạn bè ra ngoài mua đồ ăn đỗ đói để còn được ở lại nghe giảng tiếp.
Khi thờ phượng, Tống Thượng Tiết tự mình hướng dẫn hội chúng hát. Tay ông cầm một chiếc khăn trắng vẫy gọi thính giả vỗ tay theo nhịp bài hát. Tống Thượng Tiết cầu nguyện ngắn, sau đó đi thẳng vào bài giảng. Thường thường ông cũng có mang theo một quyển tập soạn bài giảng, nhưng ông rất ít khi nhìn vào đó. Có một hôm sau khi giảng xong, ông phải tiếp chuyện với những người muốn hỏi thêm về giáo lý. Ông đã mải mê giải thích nên đã quên quyển sổ ấy. Về đến nhà lúc giờ cơm mới nhớ lại, ông bỏ cả cơm nước vội vàng trở lại nơi bục giảng để tìm. Những người bạn cùng bàn với Tống Thượng Tiết phải đợi ông về để dùng cơm chung và họ đợi quá lâu nên phải cùng nhau hát vài bài ca để an ủi cái bụng đang đói meo.
Khi Tống Thượng Tiết giảng thì cử tọa tuyệt đối phải giữ yên lặng, không được làm phiền trong giờ giảng như trẻ con khóc, hay đi ra đi vào. Kể cả tiếng reo mừng; “Cám ơn Chúa”, “Ha-lê-lu-gia” cũng không được kêu lên trong lúc ông đang giảng. Hễ ai vi phạm bị quở trách liền. Khi quở trách thì ông không tiếc lời, không nể nang, không kể bất cứ ai, dù người đó là Mục sư hay là giáo sĩ... Nếu cần phải quở trách thì Tống Thượng Tiết quở trách lập tức dầu là giữa hội trường đông đảo, nhiều người chứng kiến. Rất lạ là những trường hợp ông quở trách đều là rất đúng và không một ai bị Tống Thượng Tiết la rầy mà tỏ ý phàn nàn, và người đã bị ông quở trách một lần thì sau trở nên người rất tốt! Tống Thượng Tiết cũng có ơn đặc biệt nữa là thấy được những lỗi lầm sâu kín của những người đứng đối thoại với ông. Một hôm, một nhóm thanh niên tìm Tống Thượng Tiết để đàm đạo. Ông bỗng chỉ thẳng vào mặt một nữ sinh mà bảo rằng: “Cô đã ăn cắp một chiếc nhẫn của người ta đến nay chưa trả lại. Hãy đi trả đã rồi hãy trở lại đây nói chuyện tiếp”. Nữ sinh ấy nghe xong, run rẩy cả người rồi tuân lệnh.
Phương pháp giảng Kinh của Tống Thượng Tiết thông thường nhất là viết và vẽ trên bảng đen. Cũng có khi ông gọi một thính giả lên bục giảng để giúp ông trong việc giảng giải cho rõ nghĩa. Một hôm đang giảng về thập tự giá, ông gọi một giáo sĩ Tây phương lên bục giảng, bắt giáo sĩ giang rộng 2 tay ra suốt bài giảng để tượng trưng cho cây thập tự. Một lần nào đó trên bục giảng có chưng 2 chậu hoa. Hôm ấy ông giảng về đối phó với tội lỗi. Ông dạy rằng nếu dùng những phương pháp lẻ lẻ tỉa lá và cành thì không thể diệt trừ được tội lỗi. Đối với tội lỗi thì phải trị tận gốc rễ. Vừa nói ông vừa nằm chậu hoa nhổ nguyên cả rễ.
Khi Tống Thượng Tiết giảng về sự phục hưng của Giáo hội, ông thường mang lên bục giảng một chiếc lò than. Chất đầy trên đó những củi, than và dùng quạt quạt rất mạnh, quạt liên tục khiến cho lửa trong lò cháy bừng lên. Đó là tượng trưng cho ngọn gió của Đức Thánh Linh khiến cho lửa thiêng trong giáo hội được nóng cháy. Những khúc củi, than vừa lạnh vừa ướt, tượng trưng cho những tín hữu và những con người to nhất, lạnh nhất, ướt nhất lại là những loại khó cháy nhất, đương nhiên đó là những vị lãnh đạo tự cao tự đại... Trách nhiệm chung của mọi người là giữ cho chiếc lò lửa phải luôn luôn bùng cháy, Khi lò đã cháy nóng rồi thì bỏ vào bất cứ một loại củi nào thì nó cũng cháy thiêu rụi cả.
Trong thời gian đó, Tống Thượng Tiết đã cầu nguyện với Chúa rằng: “Chúa ôi, nếu Chúa muốn con hầu việc Ngài bằng cách đi truyền giáo tự do thì Ngài cho con 2 dấu hiệu:
(1) “Trong vòng 1 tháng xin Ngài mở cho con 1 cánh cửa truyền giáo cho 5 tỉnh.
(2) Đồng thời cho con 800 đồng tiền lộ phí...”
... Cám ơn Chúa tuy tạp chí Thánh Khiết đã ngưng đăng bài của Tống Thượng Tiết, nhưng những tạp chí khác như “Bố đạo tạp chí”, “Thần tinh báo”, là báo Sao Mai, “Thông Vấn Báo” v.v.. đều có đăng tải tin tức sinh hoạt của Tống Thượng Tiết. Nhờ lối truyền thông bằng văn tự này mà kế đó cánh cửa truyền giáo 5 tỉnh Giang Tô, An Huy, Sơn Đông, Triết Giang, Sơn Tây đã mở rộng cho Tống Thượng Tiết. Đồng thời những nơi khác như Hồ Nam, Bảo Định, Bắc Kinh, Thạch Gia Trang, Bao Đầu, Tạc Lai, Tề, Quảng Đông v.v.. không hẹn mà cũng gửi thư về mời ông. Trong mỗi thư đều có từ 30 đến 50 đồng để trang trải lộ phí. Đa số tác giả những bức thư đó đều ẩn danh. Trong vòng 1 tháng số tiền đã lên quá điều mà ông đã cầu xin.
Tống Thượng Tiết nói rằng: “Tôi không thể nào không trung thành và làm việc hết sức mình cho Đấng Thành Tín, Đấng Vạn Năng và không bao giờ thay đổi này. Dù gặp thời hay không gặp thời, cùng khốn hay sung sướng, tôi đều không còn dám tính toan nữa, chỉ xin Chúa Em-ma-nu-ên ở cùng và đừng bao giờ bỏ tôi”.
Thoạt tiên, Tống Thượng Tiết đến thành phố Trấn Giang thuộc tỉnh Giang Tu. Mặc dù Hội Thánh ở đây đã có liên lạc trước nhưng số tín hữu đến dự rất thưa thớt. Ngày đầu nhóm tại một Hội Thánh thuộc giáo phái Trưởng lão, mục sư quản nhiệm là một giáo sĩ ngoại quốc, Mục sư Dã Gia Mỹ. Số tín hữu ở đây chỉ lưa thưa vài ba người. Ngày hôm sau ông đến một Hội Thánh Trưởng lão khác. Buổi thờ phượng đã bắt đầu, đã hát thánh ca vài ba bài rồi mà những người đến tham dự còn lác đác. Tổng số nhiều lắm là khoảng 200 người.. Cũng may là có một Hôi Thánh ở Bảo Cái có số tín hữu đông hơn và có lòng tìm kiếm Lời Chúa. Tống Thượng Tiết đã quyết định ban ngày tổ chức truyền giảng tại đó. Quả nhiên thấy có nhiều người thực sự được ơn thương xót của Chúa. Trong đó có những tội nhân vốn có tai tiếng xấu trong vùng. Trước khi đến đây, Chúa đã cho Tống Thượng Tiết thấy rõ là tại nơi đây sẽ có 200 người được cứu. Ông nghĩ rằng nội Trấn Giang là tỉnh lỵ của Giang Tô cũng đã đủ số này. Nhưng khi đến Trấn Giang, bắt tay vào việc mới thấy bao nhiêu khó khăn đang chờ đón. Đến ngày thứ 8 rồi mà chỉ được 110 người tin nhận Chúa! Ông tự nghi ngờ đến nản lòng, nhưng bỗng nhiên có một cô nhi viện gần đó phái người đến mời ông. Nơi ấy có số người nhóm lại khoảng 2, 3 trăm người. Một buổi truyền giảng đầu đã có hơn 80 người tin nhận, cộng với số hôm trước là vừa đúng 200! Lời hứa của Chúa quả là không bao giờ sai lệch!
Kế đó Tống Thượng Tiết đến Túc Huyện. Số người đến dự thính khoảng 7, 8 trăm người. Đây là lần đầu tiên ông không có người thông dịch. May là rất ít người không hiểu những điều ông trình bày. Những người được ơn Chúa đa số ở trong ngành giáo dục. Nơi đây cũng có một số người theo Tân phái, mà những người này đều là những kẻ giả hình và có những hoạt động mờ tối. Ông đã không ngần ngại, trong sứ điệp ông đã vạch rõ ra những tội phạm của họ nên gây ra sự phản đối rất mãnh liệt. Tại đó có một người bị bệnh liệt, đôi mắt chỉ thấy lờ mờ, 2 cánh tay thì hoàn toàn không còn cử động được, chân không thể đứng vững. Những người quen đã khiêng ông ta đến để nghe Tống Thượng Tiết giảng đạo. Sau buổi truyền giảng ông bảo với người bịnh hãy thú nhận tội lỗi. Ông ta trước hết là tự thú mình là một tên cướp. Vừa nói thì 2 cánh tay ông cử động được. Rồi ông ta thú nhận là có giết người. Nói đến dây thì đôi mắt ông ta thấy rõ hơn. Sau khi đã thú nhận tất cả tội lỗi khác thì ông ta đứng dậy và đi lại được như bình thường!
Kế đó Tống Thượng Tiết hướng về Bắc lên miền Sơn Đông, thành phố Tế Nam. Đây là lần thứ tư ông đến đây, thế mà thính giả đến nghe giảng vẫn rất đông. Thương gia, chính khách, bác sĩ, sinh viên đều tranh nhau đến dự thính. Điều này minh chứng rằng Chúa quả đã ban cho Tống Thượng Tiết những cơ hội tốt đẹp, còn hơn cả ngày xưa.
Tại thành phố Lâm Cầu, các Hội Thánh đặt nặng về các ân tứ. Họ chủ trương rằng phần tâm linh phải được siêu thăng trước rồi mới đến phần thể xác. Vì vậy trong những buổi thờ phượng, trong những giờ ca hát thánh ca hay trong khi cầu nguyện có những người vật vã chết lăn dưới đất, rồi sau đó mới dần dần hồi tỉnh lại. Thỉnh thoảng cũng có có người thình lình ngã vật ra, nhưng Tống Thượng Tiết cũng không cấm cản gì. Ngày sau cùng, lúc giảng giáo lý về sự biến hóa và dược cất lên thì Tống Thượng Tiết mới giải thích thật cặn kẽ, rõ ràng. Ông nhấn mạnh đến điều quan trọng hơn hết vẫn là tình yêu thương. Có rất nhiều người được Chúa thăm viếng, trong đó có những người lãnh đạo giác ngộ những sai lầm của mình trước kia, cũng có vô số thanh niên được cảm động dâng mình hầu việc Chúa.
Tại Duy Huyện, tất cả những Hội Thánh Trưởng lão liên kết với nhau nhóm lại tại Lạc Đạo Viện. Những tín hữu đến dự khoảng 200 người. Tại đây cũng có trường nam nữ trung học với gần 2.000 học sinh. Đang khi nghe giảng, có nhiều người nửa chừng thì bỏ ra về, không chịu hối cãi ăn năn. Đến 2 ngày cuối của chương trình truyền giảng thì có rất nhiều học sinh không chịu nổi sự thôi thúc của Chúa Thánh Linh, họ không sao ngủ yên, cuối cùng đành thức thủ và phải “mở quan tài” của mình ra. Có chừng 200 người hẹn nhau từ bỏ con đường lầm lạc và trở về con đường sự sống và họ thật sự trở thành những tín hữu khiêm nhường và rất khát khao Lời Chúa. Họ đã nhóm lại để chia sẻ kinh nghiệm mới gặp Chúa để nâng đỡ nhau. Sau đó họ tổ chức thành những nhóm nhỏ đi truyền bà Phúc âm ở các làng mạc phụ cận.
Rời Duy Huyện, Tống Thượng Tiết đáp xe hơi đến thành phố Bình Đô. Ngọn lửa phấn hưng đang rực cháy, những người mới dự đại hội trở về đây rất đông, cũng có những người đến từ khắp các nơi xa. Họ đã mang theo những chiếc bánh bao chay để ăn thế cho cơm. Địa điểm đại hội không tiện nghi và rất chật chội, một phòng có đến 5,6 chục người chen chúc nhau, nhưng họ không mảy may nào khó chịu hay than trách gì. Điều này chứng tỏ tấm lòng khao khát nghe Lời Chúa của họ lên tới mức nào. Cũng có khoảng 300 người cùng cầu nguyện với nhau thâu đêm. Họ tìm kiếm Chúa hết lòng cho nên khi Tống Thượng Tiết đến nơi đặt tay cầu nguyện cho họ thì 560 người liền có những biểu hiện của Chúa Thánh Linh thăm viếng. Tống Thượng Tiết căn dặn họ rất cặn kẽ là đừng quá chú trọng hay đặt nặng vấn đề các linh ân, mà phải giữ mình thánh khiết và đi theo con đường dầy lòng yêu thương. Hội chúng cũng hết lòng cầu nguyện cho 2 người bị liệt và Chúa đã chữa lành cho họ.
Tống Thượng Tiết đến thành phố Thanh Đảo hợp tác với hệ phái Báp-tít để truyền bá Phúc âm. Đây là lần thứ 3 ông đến thành phố này. Các Hội Thánh Báp-tít tại đây hợp tác với nhau rất chặt chẽ. Họ tổ chức được 40 đội đi truyền giảng Phúc âm. Trong thời gian này có một người bị nhóm quỷ ám, ông liền cùng với các tín hữu hết lòng cầu nguyện cho người ấy. Ai cũng cảm thấy rất rõ tình trạng giao chiến của giữa Chúa Thánh Linh và ma quỷ. Khi người ấy nhận một tội thì một quỷ ra khỏi. Cho đến lúc cả đoàn quỷ ma đã rút lui ra khỏi, Chúa Thánh Linh mới ngự vào nhưng đoàn quỷ ấy vẫn chưa chịu thua hẳn mà mà vẫn cứ trở về làm xáo trộn hoài. Mãi cho đến khi người ấy chịu vác thập tự giá mình và đi ra làm chứng về Chúa thì đoàn quỷ mới chịu rút lui hẳn và vắng bóng.
Các giáo sĩ Tây phương ở Yên Đài đã được một người nào đó cho hay rằng Tống Thượng Tiết không còn đặt nặng giáo lý cứu chuộc bởi huyết Chúa Cứu Thế và cũng không còn thánh khiết nữa v.v.. cho nên họ cũng e ngại Tống Thượng Tiết . Nhưng những tín hữu được ơn thật của Chúa Thánh Linh thì không tin vào lời đồn đãi này. Họ nghĩ rằng ông không thể là người phản phúc vô thường. Dầu vậy để cẩn thận hơn, họ đã sai 2 người đại diện, 1 người Hoa và 1 người ngoại quốc đến Thanh Đảo điều tra cho biết rõ tự sự. Hai vị điều tra này trở về tường trình quả quyết rằng những giáo lý của Tống Thượng Tiết giảng dạy vẫn như xưa. Họ liền mướn 1 chiếc xe rước Tống Thượng Tiết về Yên Đài. Chiến dịch truyền giảng tại Yên Đài kéo dài 12 hôm. Đức Chúa Trời đã ở cùng Tống Thượng Tiết và Ngài cho ông những phép lạ để làm cho vững những lời ông truyền giảng. Những phần tử trí thức xưa nay vẫn chống đối Tống Thượng Tiết, bây giờ họ đều được Chúa Thánh Linh bắt phục sấp mặt trước Chúa.
Khi Tống Thượng Tiết mới đến Tiên Tân Hà Bắc, ông tưởng những Giáo hội tại đây mời đến, nhưng hóa ra là do những người yêu mến Chúa đã lấy đức tin mà mời. Các hệ phái nơi đây không chịu cho mượn nơi nhóm họp, tạm thời thì chỉ mượn được 1 ngôi nhà thờ của gia đình nhà họ Lê. Mỗi ngày tổ chức được 2 suất truyền giảng, số người đến nghe mỗi suất gần 800, nhưng người được Chúa thăm viếng thật đông đúc. Những nhà lãnh đạo các giáo phái nơi đây đa số đều cực lực chống đối Tống Thượng Tiết. Nhưng những sự phỉ báng, công kích của họ đã có tác dụng ngược lại, nghĩa là những lời ấy trở nên những lời tuyên truyền cổ xúy cho chiến dịch truyền giảng của Tống Thượng Tiết. Số người đến nghe giảng càng ngày càng đông, những nhà lãnh đạo ấy không thể làm chi hơn được. Tống Thượng Tiết nhận xét rằng nếu những người chăn bầy có thành kiến thì khiến cho bầy chiên bị phân tâm. Hai đàng khó lòng hòa hợp, nên để cho đường ai nấy đi. Những người muốn thoát ly ra khỏi giáo phái gò bó của mình lên đến gần 4%. Nếu để cho những người này không tham dự những buổi thờ phượng hay truyền giảng của giáo phái thì thà khuyến khích họ nên thiết lập một nơi thờ phượng khác. Vì thế Tống Thượng Tiết đề nghị họ xây dựng thêm 1 cơ sở cho việc truyền giảng cứu linh hồn đồng bào. Đề nghị này được nhiệt liệt hoan nghênh. Ngay đêm đó, số tiền dâng đã lên đến gần 8.000 đồng, Một trụ sở được biệt riêng ra làm thánh đường như đã được hiện ra trước mắt. Khi Tống Thượng Tiết vừa đưa ra đề nghị này, có 3 chị em trong Hội Thánh như nghe được tiếng hát tuyệt diệu dường như là của các thiên thần cùng các thánh đồ trên trời như cũng tán dương ý kiến này. Đây là lần đầu tiên Tống Thượng Tiết đề nghị lập 1 nơi thờ phượng. Ông chân thành khuyến cáo hội chúng đừng vì việc này mà có lòng tự cao và kỳ thị các Hội Thánh vốn có trước đây. Ông cũng nhắc nhở trong phạm vi khả năng của mình phải hết sức phụ giúp và phải hết sức theo đuổi việc hợp tác cho hòa hợp. Sau khi tuyển chọn và bầu cử ban chấp hành, Tống Thượng Tiết cầu nguyện và chúc phúc cho họ. Địa điểm truyền giảng này về sau đã thành một trong những Hội Thánh lớn nhất tại Thiên Tân và đã làm chứng rất có hiệu quả cho Chúa.
Hợp tác với hội Trưởng lão hoạt động 3 ngày tại Bắc Kinh. Tống Thượng Tiết băng qua Thiên Tân, thẳng đường đến Hàng Châu thuộc tỉnh Triết Giang. Mục sư Vương Minh Đạo đang chủ tọa Đại hội tại Thái An, ông được thư của vợ cho biết Tống Thượng Tiết sẽ đáp xe lửa ngang qua đây. Ông Vương Minh Đạo liền đến ga xe lửa để hỏi thăm giờ giấc chuyến xe của ông sẽ đi ngang qua Thái An. Vừa sáng tinh mơ, Vương đã ra ga đón để đón Tống Thượng Tiết và 2 họ Tống, Vương đàm đạo với nhau được 10 phút thì xe lửa lại tiếp tục lăn bánh. Ấy là lần đầu tiên 2 nhà truyền giáo lớn của Trung Hoa gặp nhau. Hôm ấy là ngày 4 tháng 5 năm 1934.
Các nhà lãnh đạo của các hệ phái tại Hàng Châu đã sẵn sàng tiếp đón Tống Thượng Tiết. Họ tổ chức 1 chiến dịch truyền giảng 10 ngày, mỗi ngày giảng 2 suất. Đức Thánh Linh thăm viếng cách đặc biệt, học sinh của các trường đến dự rất đông và rất nhiều số người đã đầu phục Chúa. Những tín hữu vốn đã theo đạo lâu năm, đến nay mới biết chắc mình là Cơ-đốc nhân. Họ bèn hợp tác với nhau tổ chức thành 50 đội truyền giáo. Có tin đồn phong phanh là Tiến sĩ Sherwood Eddic, một giáo sĩ theo Tân phái sắp đến Hàng Châu. Tống Thượng Tiết biết rõ con người này có niềm tin không thuần chính, nên ông đã khuyên các giáo hữu ở đây phải cẩn thận tránh dự những buổi thuyết giảng của giáo sĩ này.
Sau đó Tống Thượng Tiết trở về Thượng Hải, ông tổ chức những buổi thờ phượng và truyền giảng trong 10 ngày tại thánh đường Mộ Nhĩ. Tống Thượng Tiết nhận thấy rằng những người trước kia đã được đầy ơn Chúa nay như muốn lùi bước. Ông đã vội vàng khuyến khích, nâng đỡ tinh thần họ với tất cả lòng trìu mến, yêu thương và huấn luyện họ trở nên những thành viên trung tín của Đoàn Truyền giáo. Ông giải thích cho họ hiểu chân lý yêu thương người khác là yêu thương chính mình, cứu người khác tức là cứu chính mình.
Giã từ Thượng Hải, Tống Thượng Tiết tiến đến Hồ Châu. Khi Tống Thượng Tiết giảng Lời Chúa, Đức Thánh Linh đã bắt phục Uông Thiu Châu là một Mục sư nhưng chỉ lo cho đời sống vật chất riêng tư, nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp, lo những hoạt động xã hội, muốn gom hết cả danh, cả lợi về cho riêng mình. Ông này nghe Tống Thượng Tiết giảng phải thanh toán hết những quả của tội lỗi, tức là những nợ nần của tội lỗi mà bước đi theo Đức Thánh Linh. Nhưng ma quỷ cũng nhỏ nhẹ nói với ông ta rằng, thừa nhận tội lỗi là một việc tổn thương cho danh dự. Ông đã giữ chức vụ Mục sư 15 năm mà nay lại đứng giữa hội chúng xưng nhận những tội lỗi của mình thì coi thế nào được! Không sợ tín đồ chế nhạo, chê cười cho sao? Quả tình thì Mục sư Uông cũng rất xấu hổ và sợ hãi. Nhiều lần ông đã muốn đứng lên nhưng lại phải ngồi lỳ trở lại, cho đến lúc ông đã nghe tiếng Chúa phán bảo ông: “Đừng sợ chi, phải đứng dậy thú nhận hết tội lỗi!”. Ông ta không còn chống cự được nữa, đã đứng dậy xưng hết tất cả những tội phạm của mình, nào là giả hình, không rõ ràng về tiền bạc của Hội Thánh... Hội chúng nghe xong, không một ai nhạo cười ông, trái lại mọi người đều ca ngợi đem vinh hiển về cho Chúa. Sau khi được thật sự tái sanh, Mục sư Uông bỏ hết những xảo thuật trước kia để lôi kéo tín đồ như chiếu phim, hình rọi (Slides) cùng những xảo thuật về giao tế để lấy lòng tín đồ. Từ nay ông ta chỉ truyền giảng Phúc âm cách thuần túy. Ông chỉ đặt cho mình một mục tiêu khiêm nhường là nếu có được 100 người tin nhận Chúa là ông đã thỏa ước vọng, không ngờ Chúa cho kết quả gấp 6,7 lần hơn. Hội Thánh ông đã thành lập được hơn 50 tổ truyền giáo và hơn 50 thanh niên nam, nữ dâng mình hầu việc Chúa. Sau này trong hồi ký Mục sư Uông viết lại: “Tôi đã từng gian lận tiền của Giáo hội năm này qua năm khác, nhưng rồi tiền như đụng vào túi lủng. Con cái đi học, tốn rất nhiều tiền của mà cũng không đứa nào lên được lớp. Đứa con trai yêu quí bị qua đời rất đột ngột, trong gia đình hết người này đến người kia ốm đau, đa số tiền bạc gom góp được rồi cũng không cánh mà bay theo với thuốc men, với tang chay!”. Ông cũng thêm cho người đọc một bài học: “Thừa nhận tội lỗi là làm cho Sa-tan xấu hổ và quy vinh hiển về cho Chúa. Đó cũng là điều kiện tiên quyết để được đầy dẫy Đức Thánh Linh”.
Sau khi ghé qua Hội Thánh Hồng Đức, tổ chức cuộc truyền giảng 10 ngày, Tống Thượng Tiết đến Hàng Châu để chủ tọa Đại hội Bồi linh lần thứ 1 trong thời gian nửa tháng. Ban ngày giảng tại Hội Thánh Hồ Sơn Đường, ban đêm giảng tại Tư Trình Đường. Có nhiều đại diện ở các nơi đến dự, nhưng cũng có những vị Mục sư và Giáo sư không tán thành. Cũng có vài ba vị vì nể tình của các tín hữu miễn cưỡng đến cho có mặt. Những vị này trước kia là những con người nóng cháy, nhưng nay lại có thái độ lạnh lùng khiến Tống Thượng Tiết cũng không sao hiểu nổi. Ông thầm nghĩ, mình chỉ lo tổ chức những đội ngũ mục đích chính là huấn luyện những con người đi ra truyền bá Phúc âm cho Chúa. Chẳng lẽ những vị Mục sư, Giáo sư mình lại không hoạt động cho những công việc phục hưng Nhà Chúa? Ông cảm thấy một niềm phẫn nộ. Vì quá cảm kích cho công việc chung của Nhà Đức Chúa Trời, vào những ngày cuối của Đại hội đã nặng nề quở trách, sửa trị những người lãnh đạo hâm hẩm này.
CHƯƠNG 40
TRĂM TRẬN TRĂM THẮNG
(THÁNG 9, 1934 CHO ĐẾN THÁNG 8, 1935)
I. TỪ XOA THÔ ĐẾN PHƯỚC KIẾN
Trước khi đến Phước Kiến, Tống Thượng Tiết đã ghé qua Xoa Thô. Ban ngày hiệp tác với Hội Thánh Trưởng lão tại Phổ Ích Xã tổ chức truyền giảng đồng thời cũng kêu gọi những tín hữu hãy khao khát và tìm kiếm sự công bình. Ban đêm truyền giảng và giảng phục hưng tại một thánh đường Bê-tên, thánh đường này có chỗ cho cả ngàn thính giả. Tống Thượng Tiết đã tổ chức như một đại hội cho tín hữu toàn thành phố, đồng thời cũng truyền giảng Phúc âm. Đại hội kéo dài 12 ngày, rất nhiều người được Chúa thăm viếng, Tống Thượng Tiết đã đặt tay cầu nguyện cho cản ngàn người.
Tháng 9 năm 1934, Tống Thượng Tiết một lần nữa lại đến Phước Châu tổ chức truyền giảng 20 ngày. Nơi đây ông đã lập lại phương thức làm việc hữu hiệu tại Xoa Thô. Trước tiên giảng cho các tín hữu, kêu gọi những người được ơn Chúa, qui tụ họ lại để huấn luyện cho họ sâu nhiệm thêm. Những người này là những nhân sự đắc lực chiến dịch. Lần lượt từ Cứu Chúa Đường đến Thiên An Đường và sau cùng đến Tựu Hiền Đường thuộc nội thành, là trung tâm tổ chức Đại hội cho toàn thành phố. Kết quả của chiến dịch này không kém kết quả ở Xoa Thô, Tống Thượng Tiết đã tổ chức được 94 đội ngũ ra đi truyền bá Phúc âm.
Sau chiến dịch ở Phước Châu, Tống Thượng Tiết định đi thẳng đến Hạ Môn chứ không ghé lại Huệ An, vì ông không muốn băng qua Hưng Hóa, nơi đó vừa xảy ra những vụ đốt nhà, cướp bóc của bọn thổ phỉ. Tuy nhiên Chúa không cho phép nên Tống Thượng Tiết lại có dịp trở về quê hương Hưng Hóa và gặp mặt cha già. Tống Thượng Tiết về đến nhà trong lúc cụ Mục sư Tống Học Liên đang lên cơn hen suyễn nặng. Không gặp mặt nhau mới 1 năm mà tóc của cu đã bạc trắng, răng như không còn chiếc nào. Dù cụ mệt yếu nhưng cụ cũng ráng ngồi dậy trò chuyện cùng con. Lâu ngày già yếu, bệnh hoạn cụ không ăn uống gì, nhưng đêm hôm đó vì có con nên vui miệng cụ đã ăn một bữa ngon lành. Tống Thượng Tiết báo cáo với cha công việc truyền giáo ở các nơi khiến cho cụ rất vui mừng cảm tạ Chúa, nhưng trong lòng vẫn còn ấp ủ một điều gì. Cuối cùng, cụ đã thổ lộ điều lo lắng nhất của cụ là 2 người con út. Cụ nhờ Tống Thượng Tiết nếu cha có mệnh hệ gì thì đem 2 nhỏ dại này về thay cho cha nuôi dạy chúng. Được vậy thì không còn vui mừng nào hơn cho cha. Tống Thượng Tiết nhận liền để không phụ lòng cha già. Cụ lại tiếp: “Nếu con yêu thương 2 đứa con út này của cha thì cũng như đã yêu thương chính cha vậy!”. Cụ Mục sư đưa Tống Thượng Tiết xuống lầu và ngâm bài thơ: “Đời người giống như kiếp lữ hành”. Và sau đó cụ cầu nguyện chúc phước cho con để chia tay.
Trải qua một cuộc hành trình mệt nhọc, thêm với tâm nguyện của cha và chiếc mền màu dà của cha tặng cho bị thất lạc chưa tìm thấy, khiến cho Tống Thượng Tiết linh cảm giờ phút giã từ cha già hiền từ không còn bao lâu nữa! Những lời thơ của cha ngâm tặng trước khi chia tay như hãy còn văng vẳng bên tai, cùng với những lời dặn dò gửi gắm như ghi khắc sâu trong tâm khảm.
Trong vòng 1 tháng từ ngày 13-10 đến 13-11, Tống Thượng Tiết tổ chức một chiến dịch truyền giảng từ Huệ An đến Tuyền Châu, Chương Châu và Hạ Môn. Thính giả đến dự nghe ở Huệ An phỏng chừng 500 người. Nửa là tín hữu, nửa là học sinh. Tống Thượng Tiết cũng cầu nguyện chữa bệnh cho 7,8 người và tổ chức được gần 50 đội ngũ ra đi truyền bá Phúc âm trong những làng mạc quanh vùng.
Tại Tuyền Châu, số tín hữu của 3 Hội Thánh với học sinh các trường nam nữ trung học Bồi Nguyên và Bồi Anh lên đến gần 800 đến nghe thuyết giảng. Nhưng ban tổ chức không chuẩn bị chu đáo nên những người đến chỉ nghe một cách thụ động mà không có tấm lòng khao khát tìm kiếm Chúa. Các tín hữu thì không mấy ai mang theo Thánh Kinh, người thông dịch thì không đủ khả năng, học sinh thì đến với thái độ “xem cho vui”! Do đó nơi đây không có kết quả là bao! Nhưng cũng may, lúc ấy có gần 80 tín hữu từ Huệ An lên, họ được coi như là tiếp viện binh. Chính những tín hữu này đã truyền tấm lòng nóng cháy của họ cho hội chúng tại Tuyền Châu. Từ đó số người được Chúa thăm viếng tăng lên khoảng 800 người. Tống Thượng Tiết cũng đặt tay cầu nguyện cho những người bị bệnh. Có một vị trưởng lão vốn là một y sĩ, không tin vào quyền năng cầu nguyện chữa bệnh nên đã xúi giục những người khác khiêng đến những con bệnh trầm trọng để cố tình gây khó khăn cho Tống Thượng Tiết. Nhưng Chúa đã bày tỏ sự vinh hiển của Ngài, nên những người tê liệt đã đứng dậy, những người câm đã mở miệng nói. Vị trưởng lão đó đã chân thành đầu phục Chúa. Tiếp theo 11 vị trưởng lão khác cũng khiêm tốn đầu phục Chúa và mời Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện cho từng người. Từ đó ân phước của Chúa như một nguồn suối nước tuôn trào lan ra cả hàng ngàn người khác, tràn khắp cả Chương Châu. Bốn Hội Thánh nơi đây đã liên kết tổ chức truyền giảng thêm 6 ngày. Thính giả lên đến cả ngàn người, cầu nguyện cho 640 người, thành lập được gần 80 đội truyền giáo. Tống Thượng Tiết có 1 người anh và 1 em trai đang dạy học tại Chương Châu. Khi rời Chương Châu, Tống Thượng Tiết được hơn 600 tín hữu nơi đây tiễn đưa. Ai nấy đều khóc cho cuộc chia tay này. Trong số tiễn đưa đó có anh em của Tống Thượng Tiết, họ không có tình thắm thiết như của các tín hữu khác. Ông cảm nhận được rằng tình yêu của anh em trong Chúa còn sâu đậm hơn cả tình máu mủ!
Các nhà lãnh đạo các Hội Thánh tại Hạ Môn nghĩ rằng một nhà thờ có sức chứa 800 người thì quá đủ để mời Tống Thượng Tiết đến tổ chức chiến dịch truyền giảng. Không ngờ số thính giả kéo đến từ ngoại ô thành phố có đến gần 3.000 người! Nhà thờ không còn một chỗ chen chân, thậm chị diễn giả cũng như người thông dịch không có chỗ để có thể cựa quậy! Giải pháp tạm thời là căng những chiếc lều thật lớn để chứa thính giả, nhưng số thính giả cũng quá đông nên chỉ còn cách giải quyết là ai có vé mới được vào cửa hội trường. Thiếu nhi dưới 12 tưởi không được vào! Những chiếc lều lớn cũng không đủ sức chứa, nên những lần kế tiếp, ban tổ chức phải dùng sân vận động của thư viện Anh Huệ để làm địa điểm truyền giảng lộ thiên ban đêm có thể chứa được hơn 7.000 người, còn ban ngày phải tổ chức trong lều lớn tại Hạ Môn. Dân ở đảo Cổ Lan cách Hạ Môn một eo biển cũng kéo nhau đến nghe truyền giảng. Chiếc phà ngày thường đưa khách sang đất liền, nay không sao đáp ứng được như cầu, nên có nhiều người đã phải mướn thuyền để băng ngang eo biển. Số người muốn đi quá đông, còn thuyền trống nhưng không đủ người chèo nên đa số dân ở đảo chỉ biết nhìn biển xanh mà tiếc nuối! Giáo hội thấy được tình cảnh như vậy bèn mướn 1 chiếc tàu máy lớn để chở thính giả qua lại Hạ Môn và Cổ Lan. Trên bộ thì mướn xe đò để chuyên chở thính giả từ các nơi. Chủ xe đò đã nghe truyền giảng đã tin nhận Chúa nên đã hạ giá vé. Cũng nhờ vậy mà người đến dự thính những buổi truyền giảng ngày càng đông thêm. Những người chống đối Tống Thượng Tiết đăng báo vu cáo ông dùng những lời ma quái để mê hoặc quần chúng rằng ông đã làm những tà thuật. Họ đã xúi giục dân chúng mang đến hội trường những con bệnh thật kỳ quái để phá rối và thử thách tài ông. Những người nghe được những chuyện này, khuyên ông đừng lọt vào bẫy của họ. Nhưng ông không lùi bước, trái lại ông càng tỉnh thức cầu nguyện để nắm chắc lời hứa của Chúa. Mặt khác ông mời một số anh chị em lên núi cùng ông đồng tâm cầu nguyện khẩn thiết với Chúa. Số người bệnh đã qui tụ lại trên 2.000 người, trong số ấy có vài chục người bị mù, câm, tê liệt. Tống Thượng Tiết cầu nguyện với Chúa rằng: “Chúa đã hừa rằng, những kẻ tin Ngài sẽ làm những việc lớn hơn Ngài đã làm. Bây giờ con tin và xin cho con thấy được sự vinh hiển của Ngài”. Ông tiếp tục cầu nguyện trong 3 giờ đồng hồ thì những người mù đã thấy được, những người câm nói được, người tê liệt đã đứng dậy và đi về nhà mình. Có một bà bị liệt hơn 40 năm cũng được Chúa chữa lành ngay lập tức. Về sau bà ta có gửi cho Tống Thượng Tiết một tấm hình để làm bằng chứng và để kỉ niệm. Cũng hôm ấy có hơn 1.000 người bị bệnh khác đã được chữa lành. Có hơn 5.000 người được cứu trong chiến dịch ấy và đã cầu nguyện cho 2.250 người, tổ chức được 300 đội ngũ đi ra truyền bá Phúc âm. Tiếng hát ngợi ca Chúa vang rền cả thành phố. Thật là một cơn phấn hưng chưa từng cớ. Bệnh nhân đến xin Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện: Họ phải cầm trên tay 1 thẻ màu có chữ ký của ông. Có 3 màu thẻ khác nhau để phân biệt là tín hữu, thân hữu hay người mới đến nghe truyền giảng lần đầu. Những người được chữa lành đi khắp các nơi làm chứng về quyền năng của Chúa. Đại hội truyền giảng chỉ định tổ chức trong 6 ngày, nhưng phải kéo dài đến 12 ngày. Những người đến dự nghe mang theo cả ghế ngồi và dù đề phỏng khi trời mưa cũng không phải tìm chỗ trú. Những người khao khát thức ăn thuộc linh đã không còn để ý đến việc ăn uống của mình nữa. Có những người trước kia vốn thuộc vào nhóm cứng lòng, dùng phương pháp nào cũng không lay chuyển được họ, nhưng nay đã phải chịu khuất phục và được cứu.
Tại Hạ Môn có 1 sòng bài rất lớn, vì sự phấn hưng này mà số con bạc đã giảm sút rất nhiều, cuối cùng phải đóng cửa. Những cuộc thú nhận tội lỗi, đền bù lại trước kia đã thâm lạm, những lời chúc mừng nhau vì cuộc sống mới v.v.. ngày nào cũng nghe và nơi nào cũng có. Cuộc phấn hưng này như một cơn cháy lớn lan tràn. Mười hai ngày trôi qua thật nhanh chóng! Dân chúng các nơi qui tụ về quá đông, gây trở ngại nhiều cho việc lưu thông nên cảnh sát đã phải ra lệnh giải tán Đại hội. Khi Tống Thượng Tiết giã từ, đã có trên 2.000 người tiễn đưa. Cuộc phấn hưng vẫn tiếp diễn khi ông đã ra đi. Các Hội Thánh địa phương tiếp tục công tác nuôi dưỡng, những buổi nhóm lại tại các giáo đường lúc nào cũng đông đúc.
Cơn phấn hưng đã đến, Đạo Chúa đã được dịp mở tung ra, chiến dịch truyền giảng tại Hạ Môn quả là một cuộc đại thắng của Chúa qua sự ra trận chiến đấu của Tống Thượng Tiết.
II. TẠI VÙNG TRIẾT GIANG VÀ GIANG TÔ
Hành trình tới là Tống Thượng Tiết từ Hạ Môn đi tàu lên Thượng Hải rồi chuyển tàu sang Nam Kinh. Vì sương mù dày đặc nên tàu không thể rời bến đúng ngày, do đó Đại hội tại Nam Kinh không thể khai mạc đúng ngày. Những tín hữu nơi ấy cũng nhẫn nại chờ đợi.
Tronh khi chờ tàu đi Nam Kinh, Tống Thượng Tiết đã nằm mơ thấy cha nói chuyện với mình rằng: “Cha phải rời con để đến nơi ở với Chúa. Phần con còn 7 năm ở trên đời này để hầu việc Chúa, con phải cố gắng làm việc và trung kiên cho đến cuối cùng!”
Khi tới Nam Kinh, Tống Thượng Tiết tưởng các Hội Thánh tại đây liên kết với nhau mời ông đến hầu việc Chúa. Nhưng rồi họ cũng vì bất đồng ý kiến nên chương trình thay đổi: Hội Thánh Quí Cách chủ trì Đại hội thay vì Nam Kinh. Tuy đổi chủ nhưng những tín hữu hết lòng yêu kính Chúa vẫn đến tham dự. Nhiệt tình của họ ở nơi đây rất thấp so với Hạ Môn và đảo Cổ Lan. Do đó trong những sứ điệp, Tống Thượng Tiết đã sửa trị rất nặng. Cuối cùng Chúa cũng cho được gần 600 người tin nhận Chúa.
Kế đó Tống Thượng Tiết tới làng Nam Sa Hương. Nơi này tuy nhỏ và vắng vẻ nhưng cũng có hệ phái Trưởng lão đến hoạt động. Họ đã tổ chức được những nhóm và những bầy nhỏ… Tống Thượng Tiết truyền giảng ở trụ sở Hội Nội Địa, có chừng 400 người đến dự. Trong giờ cầu nguyện có nhiều người xưng nhận tội lỗi, họ tự ý đóng góp tiền bạc để bồi thường lại những gí đã gây thiệt hại cho người khác.
Tại Gia Hưng, một thành phố chỉ có chừng 80 tín hữu, học sinh có khoảng 600 nhưng ít ai chịu đến tham dự. Buổi truyền giảng sáng cũng như chiều, chỉ có khoảng 100 người thôi. Chiến dịch tổ chức được 9 ngày và sau đó cũng thành lập được 48 đội đi ra truyền bá Phúc âm. Đa số học sinh đến, mục đích là để xem những phép lạ. Tống Thượng Tiết quyết định không cầu nguyện chữa bệnh. Nhưng khi ông đang cầu nguyện cho những vấn đề khác thì Đức Chúa Trời bày tỏ sự vinh hiển của Ngài. Một người ăn mày 2 tay bị khô quắp đã được chữa lành.
Trong khi đang hầu việc Chúa tại Gia Hưng, Tống Thượng Tiết bị cơn đau bao tử hành 3 ngày. Sau buổi truyền giảng, một người bà con đến với người y tá để đưa ông về nhà. Khi bà thăm hỏi sức khỏe của thân phụ Tống Thượng Tiết, linh tính báo cho ông biết rằng đau bao tử là điều Chúa cho biết cha mình đã qua đời, ông dùng chiếc đèn pin chiếu vào không trung và nói rằng: “Ở trên trời!”. Người bà con lấy làm phật lòng lối đùa bỡn của Tống Thượng Tiết, nhưng không ngờ đó là câu trả lời thật chính xác. Cụ Mục sư Tống Học Liên đã qua đời tháng 11 năm 1934, đúng vào ngày Tống Thượng Tiết như nói đùa với người bà con.
Sau chiến dịch tại Hạ Môn thì tình trạng phát triển ngày càng xuống, Tống Thượng Tiết biết ngay là Chúa không muốn mình mang lòng kiêu ngạo mà che lấp vinh quang của Đức Chúa Trời. Từ thành phố Gia Hưng, Tống Thượng Tiết trở về Thượng Hải và hướng dẫn những buổi huấn luyện cho các Đoàn truyền giáo lưu hành để chuẩn bị…
III. ĐI XUỐNG MIỀN NAM
Nhằm ngày Tết Nguyên Đán 1935, Tống Thượng Tiết đáp tàu đi Hạ Môn. Nơi hoạt động đầu tiên là Quảng Châu. Theo chương trình thì chiến dịch truyền giảng đó định vào ngày 9 tháng Giêng, nhưng chuyến tàu đã bị hoãn lại. Tống Thượng Tiết phải đổi chuyến tàu, vì thế ngày khai mạc phải hoãn lại 2 ngày. Khi đến Quảng Châu mới biết nếu ông đi chuyến tàu trước thì đã bị hải tặc cướp phá. Chúa đã tránh cho ông một lần khỏi phiền phức và sợ hãi.
Chuyến đi này không do một hệ phái nào đài thọ, mà do một số chị em được Chúa thăm viếng trong những chiến dịch phục hưng trước. Họ mời ông đến giảng cho đại hội bồi linh phấn hưng. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng, một sự mời mọc không do những vị Mục sư hay những nhà lãnh đạo thì không được danh chánh ngôn thuận. Ông do dự, nhưng Chúa Thánh Linh đã thôi thúc ông nên ông đã nhận lời. Khi đến nơi ông mới hay là các Hội Thánh đã chuẩn bị sẵn sàng.
Tuần thứ nhất, ông giảng tại Hội Thánh Huệ Ái Đường, một hai ngày đầu được Chúa thăm viếng khá nhiều, nhưng không ngờ Hội Thánh Hiệp Tiến rất sợ Tống Thượng Tiết lột mặt nạ Tiến sĩ Eddie bất tín. Họ đã mướn các cảnh sát chìm đến để giữ an ninh, nhưng trong sứ điệp của Tống Thượng Tiết, ông không hề nhắc tới tên của nhân vật này. Cảnh sát không có lý do gì ra tay bắt Tống Thượng Tiết.
Qua tuần lễ thứ nhì, cũng vì sự cản trở của Hiệp Tiến Hội mà Hội Thánh Huệ Ái Đường vận động cách nào cũng không mướn được hội trường. Có người đã đề nghị nên cất tạm lều chứa khoảng 5.000 người. Nhưng để tránh những phiền toái, lộn xộn có thể xảy ra, buổi thuyết giảng đầu tiên đã được tổ chức tạm tại Hội Thánh Bá Đạo Đường. Số người đến dự thính lên đến 1.600 người, mà nhà thờ lại quá hẹp nên phải chen nhau mà đứng. Tống Thượng Tiết đã cầu thay cho phần tâm linh của 879 người. Trong số những người này, họ đã đề cử ra 12 ủy viên để xây cất nhà. Chính 12 ủy viên đó đã làm gương là mỗi người dâng 1.000 đồng. Ngay đêm hôm ấy, số tiền thu được 20.000 đồng.
Tại thành phố Yết Dương có một số lãnh tụ Cơ-đốc vốn đã được Chúa thăm viếng trong chiến dịch phục hưng tại Xoa Thô, trở về thành lập một đội ngũ truyền bá chân lý Phúc âm. Họ đã cậy đức tin mời Tống Thượng Tiết đến để truyền giảng. Những người này đã hợp tác tổ chức rất chu đáo, nên mặc dầu Tống Thượng Tiết đã đến trễ 1 ngày nhưng rồi cũng có gần 400 người đến tham dự. Trong tất cả những buổi giảng phục hưng có hơn 700 người đã được Chúa thăm viếng và đã tổ chức được hơn 45 đội ngũ đi ra truyền bá Phúc âm, người bệnh đã được Chúa chữa lành.
Tống Thượng Tiết đến thành phố Mai Huyện đúng vào dịp Tết Nguyên Đán nên những ngày đầu số người đến tham dự không đông lắm. Nhưng sau đó đã tăng lên hơn 500 và họ đã cầu thay cho sự tăng trưởng tâm linh cho 288 người. Tại đây có một vị trưởng lão nổi tiếng là người có nhiệt tâm, cụ đã xây cất nhà thờ, sáng lập trường học, đề xướng những công tác xã hội và công việc tốt khác không sao kể hết. Con cháu cụ đầy đàn, thật là một người có phước. Một hôm chẳng may cụ bị vấp ngã và chân của cụ bị què. Khi đến nghe truyền giảng, cụ nhờ Tống Thượng Tiết cầu thay, nhưng cụ không được chữa lành…
Tống Thượng Tiết định qua Hạ Môn nhưng vì chuyến tàu đình hoãn. Trong lúc chờ tàu, ông đã quyết định tổ chức những buổi giảng luận bồi linh để tìm sự phấn hưng. Tín hữu nghe được tin này đã tấp nập đến dự, khiến cho ai nấy đều tin rằng: Khi ý định Đức Chúa Trời được bày tỏ thì cho dù bị đình hoãn nhưng cũng là sự ích lợi cho những người kính yêu Chúa... Cụ trưởng lão quê ở Mai Huyện (đã nói đến đoạn trên) cũng kíp đến Xoa Thu để xin đặt tay cầu nguyện 1 lần nữa. Những tín hữu tại Xoa Thu đều thầm nghĩ rằng nếu chiếc chân của cụ này được chữa lành thì chắc chắn Hội Thánh sẽ được cơn phấn hưng lớn. Khi người ta khiêng vị trưởng lão ấy đến nhờ Tống Thượng Tiết chữa bệnh thì 6ng lại từ chối, vì Chúa cho ông biết rằng, vị trưởng lão này trước kia là một tay buôn lậu ma túy sau đến thành phố này để ẩn thân...
Bỗng nhiên vị trưởng lão tắt thở và chết ngay giữa nhà thờ. Vợ con của cụ rất đau đớn và khóc lóc thảm thiết ngay trong thánh đường. Những người đến dự rỉ tai nhau to nhỏ những điều họ biết về ông cụ. Bầu không khí trong thánh đường vô cùng căng thẳng và thính giả bắt đầu xôn xao hỗn loạn. Tống Thượng Tiết vẫn bình tĩnh thong thả nói với mọi người: “Chúa sẽ chịu trách nhiệm về việc này!”. Và ông khóc lóc với Chúa, cầu nguyện rằng: “Chúa ôi, xin Chúa tỏ ra sự vinh hiển của danh Ngài. Xin Chúa cứu ông cụ này sống lại!”. Vị trưởng lão ấy đã sống lại và cụ đã thú nhận rất nhiều tội khiếp đảm như thâm lạm công quỹ, buôn lậu ma túy, hiếp dâm cùng rất nhiều việc xấu xa ô uế khác...
Vừa đến Hạ Môn, giáo hội đã cho xe hơi chờ sẵn để đón Tống Thượng Tiết, nhưng đi giữa đường thì xe bị chết máy. Về đến thành phố thì mọi nhà đã lên đèn . Ông than thở sao mà gặp quá nhiều chuyện ngoài ý như vậy, ông vừa bước vào hội trường, thấy mấy ngàn thính giả đang kiên nhẫn đợi chờ, mọi sự mệt mỏi, bực nhọc như đều tan biến.
Tại Hạ Môn, rất ít tín hữu được nghe Tống Thượng Tiết giảng luận, nhưng một số người trước đã biết Tống Thượng Tiết đã đi ra nói nhiều về những ân tứ của ông cho nhiều người khác. Một bà cụ họ Thái vốn rất sùng Phật giáo, đôi mắt gần mù hẳn. Cụ muốn thử nhờ Tống Thượng Tiết cầu nguyện chữa bệnh nên cụ đã đến để nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng. Nghe xong, bà cụ cảm thấy lòng mình phấn chấn. Trong buổi đại hội cầu nguyện chữa bệnh, bà cụ theo tục lệnh của những nhà quyền quý đã ngồi kiệu đến dự lễ cầu nguyện. Khi đến phiên bà cụ, Tống Thượng Tiết đã la lên: “Ha-lê-lu-gia ngợi khen Chúa!”. Bà cụ họ Thái thấy một luồng sáng thật lớn và đôi mắt cụ được sáng lại, vinh hiển Chúa được tôn cao. Từ đó bà cụ đã để thì giờ đọc Kinh Thánh và đem tất cả những tượng thần trong nhà thiêu hủy hết. Gia đình bà cụ dã biến thành một gia đình Cơ-đốc gương mẫu. Về sau đã di dân sang Phi-luật-tân và đã làm sáng danh Chúa tại đó.
Tại Kim Tinh có 1 người bị bệnh cùi đã từ lâu, khi nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng, ông đã tin nhận Chúa Giê-su. Vợ người này vốn là một Cơ-đốc nhân, sống về nghề nông, làm lụng vô cùng vất cả nhưng cũng không đủ sống, đã thế lại bị trộm cướp mất sạch. Một hôm người đàn bà này lê tấm thân mệt mỏi, đói lả đến nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm. Vừa lết đến nhà thờ là bà đã mê man. Khi tỉnh dậy bà thuật rằng, trong giấc ngủ bà ta thấy thiên sứ muốn đưa bà về thiên đàng. Nhưng bà xin trên trần gian này bà còn một người chồng bị bệnh phung, bà muốn còn sống để chăm sóc chồng thêm một thời gian nữa. Thiên sứ đã cam kết cùng bà là cả hai vợ chồng đều cùng sẽ được chữa lành. Những vết sưng phù trên mình biến mất, về sau chỉ còn lại vài vết thẹo và đã sống thêm được nhiều năm trên đất. Khi sắp qua đời ông đã nói rằng: “Chiên Con của Đức Chúa Trời mặc áo trắng đến tiếp đón tôi về nhà ở trên trời!”. Người vợ còn ở lại sống trên cõi đời lâu hơn. Bạn bè của bà ở Phi-luật-tân sau này đều làm chứng cho sự thật này.
Phép lạ ấy càng đồn ra, những người đến dự nghe truyền giảng ngày càng đông hơn. Nhà thờ không thể chứa hết, nên phải nhóm lại ở ngoài trời. Tuy trời nắng rất gay gắt nhưng mỗi ngày vẫn nhóm lại 3 suất. Chỉ trong ngày đầu đã có 2.000 người tin nhận Chúa. Đúng như lời hứa của Chúa: “Các con sẽ làm việc Ta làm, lại còn làm việc lớn hơn...” quả đã được thực hiện. Trong vòng thính giả cũng có những người đến từ Đài Loan, vùng Đông Nam Á và những người đến từ các thành phố Đức Hóa, Vĩnh Xuân. Có 1.927 người xin đặc biệt cầu thay cho đời sống tâm linh và 2.000 người xin cầu nguyện chữa bệnh. Tống Thượng Tiết cũng đã cầu nguyện phóng thích cho mấy chục người ra khỏi xiềng xích của quỷ ám. Đặc biệt có một sự việc khiến cho Tống Thượng Tiết cảm động sâu xa: Thành phố Kim Tinh vốn số tín hữu không đông lắm. Từ khi phó Hội trưởng Cơ-đốc giáo toàn quốc, Mục sư Hứa Thịnh Viêm đến quản nhiệm Hội Thánh. Ông đã cậy đức tin xây lên một ngôi giáo đường lớn chứa trên 1.600 người. Nhiều người nghĩ rằng chuyện này không cần thiết lắm. Nhưng Chúa đã hứa với Mục sư là mai mốt sẽ làm cho ngôi giáo đường này đầy tín hữu và hơn nữa nó không đủ chỗ cho tín hữu ngồi. Khi Tống Thượng Tiết đến truyền giảng thì Lời Chúa hứa đó đã được thực hiện.
Trở lại Hạ Môn, Tống Thượng Tiết lại tổ chức những buổi thuyết giảng bồi linh tại miền Nam Phước Kiến trong thời gian 2 tuần, mục đích là củng có niềm tin các tín hữu để họ được vững vàng hơn trong Chúa hầu cho không bị các tà thuyết mê hoặc. Từ Đài Loan và Phi-luật-tân cũng cử đại biểu đến tham dự, những chiếc lều loại lớn căng lên cũng còn quá nhỏ so với số thính giả đến tham dự. Sau phải tháo tất cả vách dựng chung quanh để chứa cho đủ tất cả những thính giả gần xa đến dự. Kết quả của chiến dịch bồi linh này thật đáng khích lệ vì có 160 thanh niên nam nữ dâng mình vào Thần Học viện để ra hầu việc Chúa. Số Mục sư đến tham dự với thái độ khiêm nhường cũng không ít. Do đó Sa-tan đã giận dữ và phá quấy bằng cách xúi giục những kẻ chống đối dùng báo chí để công kích. Đảng bộ Quốc Dân Đảng cũng ra lệnh trục xuất Tống Thượng Tiết. Ông đã phải tạm di chuyển đến đảo Cổ Lan, bên kia biển. Buổi thuyết giảng lúc rạng đông, chưa đến 5 giờ mà đã có hơn 5.000 người lặng lẽ chờ đợi. Công an tại Hạ Môn đã thông báo cho biết Tống Thượng Tiết là một phạm nhân nguy hiểm. Nhưng người vợ của Cục trưởng Cục Công An đã cất đi cái thông báo đó. Đợi cho đại hội hoàn tất và Tống Thượng Tiết đã bình an rời khỏi Hạ Môn, bà mới cho phổ biến thông báo trên.
Lúc chiến dịch sang đến Tuyền Châu, Giáo hội đã được một Tham Mưu Trưởng ẩn danh giúp đỡ nên đã tổ chức một đại hội 3 ngày trong 1 căn lều có sức chứa hơn 4.000 người. Tin đồn ra quá rầm rộ nên Tống Thượng Tiết thấy rằng lưu tại đây rất bất lợi nên đã lặng lẽ trở về Hạ Môn rồi đáp tàu về Thượng Hải.
IV. HƯỚNG VỀ MIỀN BẮC
Từ Thượng Hải, Tống Thượng Tiết hướng về miền Bắc lên Bắc Kinh. Tuần thứ nhất giảng tại Hội Thánh Trưởng lão, tuần thứ nhì và thứ ba giảng tại Hội Thánh Á Tư Lập. Sau những đợt thuyết giảng bồi linh này đã biến đổi được một số đông những người nguội lạnh trong các Hội Thánh. Họ như được thay vào một đời sống mới nên những công việc trong Hội Thánh như có thêm sức sống. Những tín hữu trung kiên với Chúa đã chiến đấu cho Phúc âm một cách can trường khiến cho Tống Thượng Tiết rất được khích lệ. Trong một đêm, Tống Thượng Tiết giảng về sứ điệp “Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh trong ngày lễ Ngũ Tuần”. Có một giáo sĩ ngoại quốc đặc biệt đã mời một số yếu nhân trong chính quyền giới đến tham dự. Tống Thượng Tiết đã rất nhã nhặn bảo với giáo sĩ nọ mời những vị đó vào hàng ghế đầu để nghe giảng. Vị giáo sĩ này mời các thượng khách ấy lên ngồi ngay trên tòa giảng. Những con người này lại hợm hĩnh, thiếu lịch sự, ngồi trong thánh đường nghe giảng mà thái độ ngạo mạn, lại còn hút thuốc lá, khiến cho thính giả ngồi phía dưới nhìn lên rất lấy làm khó chịu. Họ thì thầm to nhỏ cùng nhau bất mãn vì thái độ thiếu nhã nhặn của những người đó. Tống Thượng Tiết đã đuổi họ đi rất khéo. Vốn là trong bài giảng về Đức Thánh Linh, Tống Thượng Tiết thường hay dùng một lò lửa lớn với than và củi tươi đốt lên để làm ví dụ cho thính giả dễ hiểu. Hôm ấy Tống Thượng Tiết đã hướng thẳng vào các vị “thượng khách” mà quạt lửa. Khói bay lên mù mịt và lửa tung tóe bay vào người họ, các vị quan liêu này đã phải chạy đi nơi khác. Tống Thượng Tiết là một người thẳng thắn, không nể vì những kẻ ngạo mạn cho dẫu họ là ai đi chăng nữa.
Tại Bắc Kinh có một người đàn bà tin Chúa sau khi nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng, bà bị người chồng đánh đập, nhưng càng bị đánh bà ta lại càng ca hát ngợi khen Chúa. Càng ca hát lại càng bị đánh dữ dội! Ông chồng vũ phu này vừa đánh lại vừa mắng chửi thậm tệ: “Đánh mày, mày còn ca hát, vậy tao sẽ đánh cho mày chết, xem thử mày còn có thể hát ca không!”. Nhưng người đàn bà này vẫn cứ ca hát ngợi khen Chúa. Tánh tình hung hăng của người chồng ngày càng dữ dội, ông ta tuyên bố rằng: “Ngày mai không cho mày đi nghe giảng đạo nữa. Tao là chồng, tao có quyền quản chế mày. Bây giờ mày cần gì thì tao cho, nhưng tao cấm mày không được tin Chúa Giê-su!. Nhưng người đàn bà này vẫn hát “Tôi cần Chúa Giê-su”. Mãi về sau người chồng không còn cách gì có thể ngăn cấm vợ, lương tâm ông ta cũng bị cáo trách nên cuối cùng đã cùng vợ quỳ gối cầu nguyện Chúa xin tha tội. Người chồng cũng đã được Chúa biến đổi. Người đàn bà này đã làm chứng rằng: “Với nước mắt tôi đã cầu nguyện với Chúa ‘con cần Giê-su’. Tôi chỉ nói như vậy và tất cả mọi nan đề đều được giải quyết. Tất cả mọi khốn khổ tôi đều chịu đựng được và đã trải qua bao nhiêu nhục nhã tôi vẫn cất lên được tiếng hát ngợi khen Chúa”.
Đại Danh Phủ là một thành phố nghèo xơ xác, nhưng khi Tống Thượng Tiết đến tổ chức truyền giảng cũng có gần 800 người đến dự nghe. Cuộc sống của dân thành phố này thật vất vả, lợi tức của mỗi người dân chỉ được tối đa 1 đồng 1 tháng, thậm chí có những người suốt đời chưa hề thấy 1 đồng tiền bằng bạc. Do đó trong hộp dâng hiến chỉ thấy những đồng tiền bằng đồng, nhưng tổng số cũng lên đến gần 60 đồng! Trong số đó có rất nhiều “Hai đồng tiền của người đàn bà góa”, Những đội ngũ đi ra truyền bá Phúc âm cũng đem về cả trăm người cho Chúa. Họ cũng cậy ơn Chúa cầu nguyện chữa lành cho một người bị mù từ hồi mới lọt lòng mẹ.
Tại Đại Danh Phủ có một vị giáo sĩ Tây phương thuộc Hội Thánh Bê-tên. Ông này mua cho mình rất nhiều ruộng đất, lập nhiều vườn cây trái, thành lập một nông trại chăn nuôi... Ông định thành lập Hội Thánh rồi sai phái giáo sĩ đi đây đó truyền bá Phúc âm. Chẳng may thình lình ông ta bị một con dê mang từ ngoại quốc về húc và ông đã qua đời sau đó. Sản nghiệp của ông đã quy về cho Hội Thánh Bê-tên. Thật đúng như lời Thánh Kinh: “Trong lòng loài người có nhiều mưu kế; song ý chỉ của Đức Giê-hô-va sẽ thành được”. (Châm Ngôn 19:21)
Thành phố Vệ Huy là nơi mà các giáo sĩ Tây phương đến rất sớm. Họ đã xây cất 30 dãy nhà lầu, thành lập Thần Học viện. Đến năm 1927 phong trào chống Cơ-đốc giáo nổi lên rất mạnh. Hầu hết các giáo sĩ phải trở về nước, công sức và tiền của bỏ ra rất nhiều nhưng chỉ được vài chục người tin Chúa! Vì vậy càng thấy rõ do mưu toan của con người thì không thể gặt hái nhiều kết quả! Có một điều rất lạ là khi đến thành phố Vệ Huy, Tống Thượng Tiết bỗng bị đau răng phải đến nha sĩ nhổ và sau đó bị sưng lên rất đau đớn. Ông cũng ráng nhịn đau mà truyền giảng, nhưng khi Tống Thượng Tiết vừa rời khỏi Vệ Huy, mới đặt chân lên thành phố Trịnh Châu thì những nơi sưng và đau tự nhiên đã lành hẳn!!
V. PHI LUẬT TÂN
Trở lại Thượng Hải, Tống Thượng Tiết liền nộp đơn xin chiếu khán đi Phi-luật-tân. Tống Thượng Tiết được Chúa hứa tại đây Ngài sẽ cho ông một điều quý báu rất kín nhiệm. Tống Thượng Tiết đã kiên nhẫn chờ đợi lời hứa này hơn 2 tuần lễ, nếu không thì ông đã đi nơi khác để làm việc rồi, trong lúc đợi chờ, ông rảnh rỗi thấy thời gian trôi qua thì lòng như lửa đốt... Đến Phi-luật-tân hoạt động nửa tháng.. đây là lần đầu tiên Tống Thượng Tiết truyền giảng ở nước ngoài. Dân cư của quốc gia này chỉ lo làm ăn buôn bán, không mấy ai chú tâm đến đời sống tâm linh. Những kiều dân Trung Hoa tuy cũng bận rộn với công việc làm ăn, nhưng dẫu sao họ cũng còn quan tâm đến đời sống thuộc linh. Ban điều hành đã tổ chức những giờ nhóm họp rất là bất tiện. Buổi sáng từ 5:50 đến 7:00, buổi tối từ 8:00 đến 10:00. Tống Thượng Tiết đã phải đi ngủ trễ và dậy sớm rất nhọc mệt. Những buổi nhóm ban sáng người đến dự khoảng 200, còn buổi tối có khoảng 1.000, đa số là dân đảo Luzon, còn một ít thì đến từ các đảo khác. Buổi chiều truyền giảng cho người Phi-luật-tân tại một nhà thờ của người ngoại quốc, số người đến dự cũng chỉ được vài mươi! Ngày Chúa Nhật nhiều lắm cũng chỉ có vài trăm người đến tham dự và có 4,5 chục người được Chúa thăm viếng. Một lần kia tổ chức truyền giảng cho học sinh, có vài trăm học sinh đến dự, nhưng cũng chỉ có vài chục em tin nhận Chúa. Qua tuần lễ thứ nhì, Tống Thượng Tiết dạy nghiên cứu sách Khải thị vào buổi chiều, khoảng 300 người đến tham dự lớp học. Ngày hôm sau đặc biệt cầu nguyện cho những người bị bệnh thì nhiều người được chữa lành, qui vinh hiển về cho Chúa. Những Hoa kiều nơi đây đa số đã bỏ vợ người Hoa và cưới con gái người Phi. Nhưng sau khi tin nhận Chúa đã trở lại cùng vợ cũ, hành động này đã làm chứng tốt cho Chúa. Về sau có mười mấy vị đại diện về Hàng Châu tham gia những buổi học Kinh Thánh. Nhưng Lời Chúa hứa ban điều quý báu rất kín nhiệm, Tống Thượng Tiết vẫn chưa thấy tỏ tường và ông còn đang chờ đợi.
Trong thời gian truyền giảng tại Phi-luật-tân, Tống Thượng Tiết cũng không lo ngại gì hết. Khi cần ông vẫn thẳng thắn đả kích tội lỗi, nhất là tội của những kẻ chỉ mang danh Cơ-đốc nhân mà không thực sự là người của Chúa Cứu Thế. Nhiều khi Tống Thượng Tiết đã chỉ thẳng vào một người đang ngồi trong đám thính thính giả và vạch rõ tội của người đó ra và chưa bao giờ ông đã nói sai. Thường thường phía trong chiếc áo màu lam của Tống Thượng Tiết, ông mặc một chiếc áo rất cũ và trong đó viết đầy những thứ tội lỗi như nói dối, ăn cắp, tà dâm, ích kỷ, hận thù, hung dữ, bất tín... Lúc nào nói đến những kẻ giả hình, ông cởi chiếc áo màu lam khoác ngoài ra để cho thính giả thấy chiếc áo trong quái đản đó! Khi ông nói đến quyền năng của huyết cứu chuộc của Chúa Cứu Thế thì ông máng chiếc áo dơ bẩn đầy tội lỗi ấy lên cây thập tự. Phía trong chiếc áo “dơ bẩn” đó là một chiếc áo vừa trắng, vừa sạch...
Trong số thính giả của một buổi truyền giảng nọ, có vị Tổng Lãnh sự Trung Quốc tại Phi-luật-tân đến tham dự. Trước kia ông này làm việc tại Bắc Kinh và Tân-gia-ba, vốn là một người nghiện rượu và đam mê cờ bạc. Ông ta góa vợ, nhưng sắp tục huyền với một người đàn bà khác. Bà này đã khuyên ông ta nên đến nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm. Khi ông ta nghe Tống Thượng Tiết nói về các thứ tội lỗi, ông tưởng như Tống Thượng Tiết đã đem việc nhà ông của ông ra mà kể vậy. Ông ta đã bị bắt phục và tin nhận Chúa Giê-su. Một thời gian sau ông ta đổi về Nam Kinh tiếp tục đến dự một Đại hội truyền giảng khác, vào đêm thứ năm thì cây củi khô này như đã được đun vào trong lửa bừng. Ông ta đã thật sự được tái sanh năm 38 tuổi, về sau trở thành Viện trưởng một trường Kinh Thánh tại Java, thuộc xứ Nam Dương. Thấy ông là một người trưởng giả, khiêm hòa, nhân hậu, ít ai có thể tin được ông vốn là một người có một quá khứ hoang đàng trụy lạc như vậy.
...Tại một đảo khác của Phi-luật-tân, Tống Thượng Tiết đã tổ chức truyền giảng trong căn lều dựng tạm lên để làm xưởng cưa gỗ. Một nữ tín hữu đã lùi bước bỏ Chúa từ lâu. Bà nghe những “truyền thuyết” về Tống Thượng Tiết cũng muốn đến nghe thử. Bà quyết tâm rằng sẽ không nhìn thẳng vào ánh mắt của Tống Thượng Tiết để mình sẽ không bị mê. Sứ giả truyền giảng này quả là một con người đặc biệt, chẳng những qua lối diễn giảng của ông mà chính mắt bà ta trông thấy chuyện kì lạ: Một ký giả họ Châu vốn là một người còng lưng, đầu thì chúi xuống gần đụng đất, nhưng sau khi được Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện, chiếc lưng còng của ông đã thẳng lên và ông đã đưa thẳng tay lên trời la lớn: “Tôi được thẳng lưng rồi! Tôi đứng thẳng lên được rồi!”. Chính người ký giả này về sau đã tổ chức một hiệp hội truyền giảng Phúc âm hoạt động rất mạnh mẽ. Người nữ tín hữu “đến xem cho biết” đó cũng đã được phục hưng, tấm lòng trở lại nóng cháy, trở nên chấp sự của Hội Thánh địa phương.
Tống Thượng Tiết giã từ Phi-luật-tân trở về Thượng Hải, đến ngay Hàng Châu để hướng dẫn một lớp học Thánh Kinh và truyền giảng của tín hữu toàn quốc. Đại hội này do 3 người nữ tín hữu tại Hàng Châu khởi xướng. Họ đã hiệp nhau cầu nguyện nhiều ngày, mượn nơi nhóm lại, cũng như những nơi tạm trú cho các đại diện tín hữu các nơi đến. Nơi ở của nam giới là một khách sạn còn nơi ở của nữ giới là ký túc xá của trường nữ Hoành Đạo. Hội trường chính để nhóm họp là của Hội Thánh Hồ Sơn Đường. Đại diện của các nơi đến dự lên đến trên 300, trên phân nửa đến từ Hạ Môn, người địa phương tham dự có đến gần 600. Đại hội khai mạc từ ngày 10 tháng 7 đến ngày 9 tháng 8 năm 1935. Một vị tín hữu ở mãi thành phố Đại Danh Thủ, vì kinh tế eo hẹp nên đã đi bộ đến để tham dự Đại hội, thật là một tấm gương trung thành và kiên nhẫn hiếm có.
CHƯƠNG 41
VỀ MIỀN NAM (1935)
Tống Thượng Tiết vẫn còn nhớ rõ khải tượng lúc còn đang du học tại Hoa Kỳ, một người bạn đã biếu cho ông một chiếc địa cầu (chương 21). Lúc bấy giờ ông không mưu định gì đến những nơi xa xôi để truyền giảng nhưng Chúa đã khuyến khích ông bằng một câu Kinh Thán trong Khải Thị 3:8: “Ta biết công việc của con, dù năng lực kém cỏi, nhưng con đã vâng giữ lời Ta, không chối bỏ danh Ta. Ta đã mở trước mặt con một cái cửa chẳng ai có quyền đóng lại”...
... Các Hội Thánh Huê Kiều trong vùng Đông Nam Á Châu vốn có liên hệ mật thiết với các Hội Thánh tại Phước Kiến và Quảng Đông. Mặc dù chưa có liên hệ với Tống Thượng Tiết nhưng các tín hữu tại 2 tỉnh trên đã viết thư cho đồng bào mình ở ngoại quốc để làm chứng những gì Tống Thượng Tiết đã làm cho Chúa. Do đó dù các đồng bào còn ở hải ngoại cũng đã nghe đến danh của Tống Thượng Tiết. Trước hết, ông nhận lời mời của Hội Phúc âm Liên hiệp Tân-gia-ba nhằm vào hạ tuần tháng 8 năm 1935. Đại hội phấn hưng sẽ khai mạc vào ngày 30 tháng 8, ban tổ chức nghĩ rằng nếu có khoảng vào ba trăm người đến dự cũng đã là vui lắm rồi. Nhưng ân điển của Chúa vượt quá lòng mong ước của con người, người đến tham dự quá đông nên ban tổ chức đã phải dời Đại hội sang thánh Hội Thánh Giám lý nhưng vẫn không đủ chỗ ngồi. Thông dịch viên cung ứng không đủ, vì sau khi dịch một hai bài đã mất tiếng, không đủ sức tiếp tục. Về sau bà Ngô Tĩnh Linh đã dùng loa phóng thanh để dịch sang tiếng Hạ Môn, vấn đề mới được giải quyết. Mỗi ngày giảng 3 suất, chiến dịch kéo dài trong vòng 14 ngày và kết thúc vào ngày 12 tháng 9. Trong thời gian ấy đã truyền giảng 40 lần có trên 1.500 người được Chúa thăm viếng, cầu thay cho 880 người, thành lập được 111 đội ngũ ra đi truyền bá Phúc âm, có trên 80 thanh niên nam nữ dâng mình hầu việc Chúa.
Tại Ma-lắc-ca thuộc Mã-lai-Á có nhiều chứng tích của công cuộc truyền giáo. Tống Thượng Tiết đã đến thăm địa điểm dịch Kinh Thánh ra Hán ngũ của giáo sĩ Marison. Truy niệm những nhà truyền giáo ngày xưa và suy nghĩ đến những công khó của lúc khai sơn phá thạch gieo những hạt giống Tin Lành đầu tiên, lời Kinh Thánh đã được chứng thực “công khó của anh em trong Chúa không vô ích”. Ông hiệu trưởng của trường nữ trung học nơi ấy đã đồng công hợp tác với Tống Thượng Tiết, riêng ông hiệu trưởng trường nam thì không hợp tác nên những buổi truyền giảng ban ngày chỉ có vài chục người đến tham dự, buổi chiều và tối có khoảng gần 400. Tuy vậy Chúa vẫn tiếp tục tiếp nhận thêm mỗi ngày người được cứu vào Hội Thánh. Hầu hết nữ sinh đều được ân sủng của Chúa, Tống Thượng Tiết cầu thay cho 345 người. Buổi thuyết giảng ngày thứ 6 là ngày bế mạc, một buổi thờ phượng nhuốm đầy tình yêu và quý mến. Vì có một đại diện của nữ hoàng đến công tác nơi đây nên Tống Thượng Tiết đã thay đổi địa bàn hoạt động..
Tại đảo Pénang cũng có Hội Thánh Giám lý và Hội Thánh Anh em, nhưng 2 hệ phái này có sự phân rẽ nhau. Tống Thượng Tiết truyền giảng tại một địa điểm của Hội Thánh người ngoại quốc, giáo đường chứa được khoảng 800 người, có những người từ các thành phố khác đến, mục đích chính là được Chúa chữa lành bệnh chứ chưa từng nghe Phúc âm bây giờ, có nhiều người đã được Chúa xót thương. Trong Hội Thánh Anh em có một tín hữu cưới cả 2 chị em làm vợ, nói là bắt chước ông Gia-cốp trong Kinh Thánh, nhưng sau khi nghe Tống Thượng Tiết giảng đã biết lỗi và tình nguyện bỏ đi 1 bà!
Rời Pénang Tống Thượng Tiết vượt biển qua đảo Sumatra, nơi đây có một Hội Thánh đã thành lập được 13 năm rồi nhưng chỉ vỏn vẹn có 47 tín hữu. Đa số học sinh và các giáo viên của các trường tại đảo này đều thuộc Tân phái. Buổi truyền giảng đầu tiên đã có hơn 400 người ào ạt kéo đến nghe, thái độ của những người này ồn ào, vô trật tự như đến một hí trường. Tống Thượng Tiết đã quở trách họ nặng nề, nhưng Mục sư sở tại và chấp hành Hội Thánh thì cho là Tống Thượng Tiết thiếu lòng yêu thương. Đêm hôm ấy, Tống Thượng Tiết thuyết giảng về huyết cứu chuộc của Chúa Cứu Thế và đã có hơn 100 người cầu nguyện tin nhận Chúa. Một vị chấp sự trong Hội Thánh cũng xưng tội, hối cãi.
Trở lại Mã-lai Peclec, Hội Thánh nơi đây có rất nhiều tín hữu, trông dường như rất phát triển, nhưng trình độ thuộc linh không đồng đều, lúa mạch và cỏ lùng lẫn lộn. Những tín hữu bị các hệ phái loại ra cũng nhập về đây cho nên hài cốt khô chất đống lên cao. Thị trấn này nhà cửa trông lưa thưa, nhưng đến giờ khai mạc đã thấy hàng trăm chiếc xe đạp khắp nơi ào ạt chạy về. Tống Thượng Tiết thấy rằng họ cũng rất khao khát Lời Chúa. Nhưng muốn truyền giảng cho họ thì phải có 2 người thông dịch ra tiếng Hạ Môn và tiếng Phước Châu. Có khoảng trên 800 người được ơn Chúa.
Ngày 18 tháng 10, Tống Thượng Tiết phải trở lại Tân-gia-ba để giảng 1 tuần lễ cho hội đồng bồi linh. Tại các nơi đến dự có trên 400 cộng với tín hữu địa phương hơn 2.000, nhưng chờ máy phóng thanh, Tống Thượng Tiết hướng dẫn hội chúng nghiên cứu các bài học Thánh Kinh, giúp tín hữu sâu nhiệm hơn những tín lý căn bản, ngõ hầu không bị các tà thuyết lung lạc. Những đoàn viên truyền bá Phúc âm đã lên đến khoảng 1.000 người và chia thành 132 đội, nên cần phải có sự điều hành hợp lý. Tống Thượng Tiết đã gợi ý thành lập một tổng bộ đoàn truyền giảng để khai triển cá nhân chứng đạo và truyền giảng quy mô lộ thiên. Trong chiến dịch quy mô này, thống kê cho biết số người tin nhận Chúa lên đến 5.000 người. Các giáo đường từ đấy không còn chỗ trống cho tín hữu đến thờ phượng. Thậm chí những ngoại ô thành phố cũng phải xây cất thêm nhiều cơ sở để thờ phượng. Hội đồng bồi linh bế mạc vào tháng 10. Tống Thượng Tiết rời Tân-gia-ba để trở về nước. Khi chia tay những người đưa tiễn lên đến cả ngàn, bày tỏ tấm lòng nhiệt thành của người Trung Hoa đối với ông. Vì người tiễn đưa quá đông, nên nhân viên hỏa xa không thể cho họ lên tàu để giã từ người ra đi. Nhân viên công lực cũng đã phải ra lệnh cho những người đi đưa tiễn sắp hàng dài. Tống Thượng Tiết đứng nơi đầu toa xe, rồi lần lượt những người bước lên bục bắt tay giã từ rồi bước qua bên kia của toa xe để nhường bước cho người kế tiếp. Người người lũ lượt lên, xuống như một dòng nước chảy.
Khi tàu sắp khởi hành, một đứa bé khoảng 12 tuổi đến quỳ dưới chân Tống Thượng Tiết mà khóc lóc kể lể rằng đã bị mẹ bỏ, nó van xin Tống Thượng Tiết thương tình nhận làm con nuôi. Tống Thượng Tiết nói rằng, ông ta lấy bốn biển làm nhà cho nên không thể giúp gì được. Một khi đã bị mẹ bỏ rơi đứa trẻ trở thành kẻ xấu số. Ông đã nhờ một trẻ viên của Giáo hội giúp đỡ. Tống Thượng Tiết nghĩ đến những con sơ sinh trong Chúa: Nếu không có ai tiếp tục nuôi dưỡng, tương lai họ cũng trở thành những kẻ lang thang. Tống Thượng Tiết cưu mang vấn đề này như một gánh nặng trên vai, nên một Đại hội để chuyên về học Kinh Thánh đã thành hình trong suy tưởng của ông.
CHƯƠNG 42
HÀNH TRÌNH VỀ MIỀN DUYÊN HẢI
VÀ ĐÀI LOAN (1935-1936)
I. CÁC TỈNH GIANG TÔ, HÀ BẮC, SƠN TÂY VÀ THÀNH PHỐ THƯỢNG HẢI
Sau khi về nước, Tống Thượng Tiết nỗ lực kêu gọi thanh niên dâng mình hầu việc Chúa. Những ai có thể chịu gian khổ và lao lực để đi chăm sóc các bầy chiên của Chúa. Tại Giang Âm đã có hơn 200 thanh niên đáp lời kêu gọi đó. Còn lại thành phố Trấn Giang vì dân chúng lo thực tập tránh oanh tạc nên số người đến tham dự rất ít. Và những người đến nghe giảng đa số đã được Chúa thăm viếng những lần trước, trong số ấy có rất nhiều người đã thực hiện lời hứa nên đã vào trường thần học. Riêng cô Hoàng Ái Quang đã đến tận Vân Nam để khai phái những cuộc truyền bá Phúc âm.
Khi đi qua tỉnh Nam Kinh thấy Đoàn Truyền Giáo tại đây dưới sự hướng dẫn của Đoàn trưởng Tàu Vạn Sơn hoạt động rất tích cực. Tống Thượng Tiết rất cảm động và được khích lệ cho chức vụ của mình . Ông sợ là một nhân viên hỏa xa, ông ta có soạn một tài liệu giáo lý căn bản với nhan đề “Cánh Lông Trên Mũi Tên” và ông Sơn thường hướng dẫn đồng nghiệp sau 4 giờ chiều đi ra các đường phố để truyền bá Phúc âm. Hàng tuần có họp nhau lại để cầu nguyện và báo cáo những thành quả thu hái được. Họ khích lệ nhau và cầu thay cho nhau. Cách 1 tuần, Đoàn đến thăm 1 Hội Thánh để tổ chức truyền giảng. Bốn đêm trước họ đã lo chuẩn bị bằng cách mời 2 chàng sinh viên Lâm, Từ và ông thư ký Hội Thánh họ Lý dùng kèn và nhạc khí đánh những bản nhạc để thu hút người đến nghe. Các đoàn viên khác thì đi phát các truyền đạo đơn, tiếp đãi những khách đến dự. Trong buổi nhóm thì dạy Kinh Thánh, làm chứng hay tập cho hội chúng những bài hát để ca ngợi Chúa. Mỗi người tận dụng những ân tứ Chúa đã cho mình để cùng phục vụ Chúa. Trong số đoàn viên có Lâm Hưng Niên, sau khi tốt nghiệp đại học đã dâng mình vào Thần học viện Linh Tri, do Mục sư Giả Ngọc Minh sáng lập, ông là người đã bỏ mình vì Chúa tại Kim Tinh trong thời gian quân đội Nhật chiếm đóng.
Trong Thần học viện nữ tại Nam Kinh có nhiều bông trái do Tống Thượng Tiết gây dựng nên. Tống Thượng Tiết đã cùng họ nghiên cứu Phúc âm Ma-thi-ơ chương 9 để học biết “làm sao để trở thành một công cụ cho Chúa sử dụng”, vừa hướng dẫn họ hát những bài đoản ca mang ý nghĩa: “Đau xót cho những cảnh khốn khổ lưu lạc” và “cần những người ra đi ngay để cứu vớt những linh hồn đáng thương đó”. Ngay đêm hôm ấy, có vài sinh viên xin nghỉ học để theo Tống Thượng Tiết đến Hô Hồ. Năm 1930, Tống Thượng Tiết đã đến đây 1 lần, lần này ông đến để liên kết 5 hệ phái tại đây để tổ chức 1 buổi truyền giảng tại nhà thờ của Hội Thánh Giám lý. Thính giả đa số là sinh viên và có gần 500 người được Chúa thăm viếng. Sau buổi truyền giảng hôm ấy, một bác sĩ họ Thái của trường nữ thần học Nam Kinh cùng một số sinh viên muốn đi cùng Tống Thượng Tiết đến làng Trương Thôn để truyền giảng. Viện cớ Trương Thôn là 1 thị trấn nhỏ, hẻo lánh nên đã lựa lời từ chối không cho những người ấy tháp tùng. Vì thế số sinh viên ấy đã trở lại trường tiếp tục việc học. Thật ra, Tống Thượng Tiết không muốn phụ nữ tháp tùng trong những chuyến truyền giảng như thế này, sợ có nhiều điều bất tiện. Lòng Tống Thượng Tiết ước mong có 1 thanh niên như Ti-mô-thê đối với Phao-lô vậy, nhưng cho đến lúc ấy ông vẫn chưa được toại nguyện. Trương Thôn là 1 thị trấn nhỏ chỉ có khoảng hơn 100 gia đình, lúc ấy lại nhằm lúc giữa mùa đông, lại hay bị cướp phá nên ban đêm không thể nhóm họp được... Mặt trời vừa mọc là đánh ống kẻng kêu gọi người trong làng đến nghe truyền giảng. Thế mà chỉ ít phút là đã có hơn cả ngàn người ngồi chật cả căn lều mớt dựng.. số người được Chúa thăm viếng khá đông. Truyền giảng xong, Tống Thượng Tiết vội vã chia tay. Những người nhận được hồng ân của Chúa đã tiễn đưa ông đến mấy dặm đường, vừa đi vừa ca hát tôn vinh Chúa, tiếng hát vang xa khắp xóm làng.
Thời tiết tại Thiên Tân rất lạnh và tâm linh của tín hữu nơi đây lạnh cũng không kém. Tinh thần của họ không bằng anh em tín hữu ở trong các thôn xóm, họ ngại thời tiết lạnh lẽo nên đến dự nhóm rất ít, chỉ có độ vài trăm người đến tư gia của đoàn trưởng Trương Châu Từ để cùng nhau học về sách Khải Thị. Tống Thượng Tiết liền triệu tập những người lãnh đạo trong các đoàn truyền giảng để cầu nguyện. Ông khuyến khích mọi người tự mở nắp quan tài tội lỗi của chính mình, bỏ hết những thành kiến. Những ai lạc bước nên quay lại cho kịp lúc, những ai tưởng mình vững vàng lại càng phải cẩn thận để tránh tính kiêu ngạo thuộc linh.
Đoàn Truyền Giáo Bắc Kinh được Mục sư Vương Minh Đạo chăm sóc, nên giữ được những tín lý thuần chính. Không giống như những người ở trong Đoàn tại Thiên Tân, đói nhưng không biết chọn thức ăn. Bất cứ ai cũng mời đến chia sẻ giáo lý nên niềm tin đã có phần sai lệch và rất nhiều quan điểm đối chọi nhau. Tại thành phố Từ Châu, vì sự kiên nhẫn của một chị em tín hữu cho nên đến nay mới được chấp thuận mời Tống Thượng Tiết đến để tổ chức một chiến dịch truyền giảng 10 ngày. Vì hội trường nhỏ hẹp nên ban tổ chức nên ban tổ chức nghĩ ra một cách là bán những huy chương nho nhỏ để hạn chế số người vào cửa. Tổng cộng đã bán trên 700 cái. Mỗi ngày giảng 3 suất, suất nào cũng không còn chỗ trống. Những ngày sau cùng, những người đến từ phương xa có ý định rời đại hội sớm nhưng vì một cơn bão tuyết thình lình xảy đến nên đã phải ở lại. Nhờ đó họ đã học hỏi được nhiều điều và nhất là nhận được năng quyền từ Chúa Thánh Linh.
Trên con thuyền xuôi về thành phố Thái Châu, Tống Thượng Tiết bị cảm cúm và lên cơn suyễn nặng nên rất mệt nhọc. Dầu vậy ông cũng cố gắng giảng một bài. Rất tiếc hôm ấy số tín hữu cũng như thân hữu đến dự rất ít, kể cả những người từ ngoại ô thành phố cũng chỉ trên 100 người. Dân thành phố Thái Châu rất mê tín, thờ lạy đủ mọi thứ thần tượng. Muốn cho dân thành phố ấy chú ý, ông đã tổ chức những buổi truyền giảng ngoài trời. Trong số tín đồ cũng có những người thuộc “bầy nhỏ”, họ tin rằng Chúa sắp trở lại nên họ khuyên con em mình không nên đi học nữa, ở nhà chuyên tâm đón chờ để được cất lên trời. Những người trong nhóm này chống đối Tống Thượng Tiết mãnh liệt. Ban đầu lãnh tụ của họ cũng muốn hợp tác với ông, nhưng sau thì đổi ý, chỉ có những giáo sĩ ngoại quốc là đồng tâm nhất chí cùng Tống Thượng Tiết. Ngày xuất phát của Đoàn Truyền Giáo đã bị dân chúng ném đá, chế giễu, điều đó nói lên tấm lòng chai đá của dân địa phương.
Tại thành phố Tuyên Thành có bác sĩ Lâm Xương Niên rất yêu mến Chúa. Khi Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm tại tỉnh Hô Hồ, vì vợ ông bệnh nên ông Lâm không đến tham dự được. Ông đã ngày đêm cầu nguyện xin Chúa sai Tống Thượng Tiết đến thành phố Tuyên Thành. Chúa đã nhậm lời và một mình bác sĩ Lâm đã một mình chịu hết mọi tổn phí, ông cũng đích thân đánh điện mời hết thân hữu đến tham dự. Nhà thờ của Hội Thánh chỉ có thể chứa tối đa 200 người. Khi thân hữu đến ngồi đầy hết phòng thì trời đổ mưa. Bầu không khí của buổi nhóm lại rất nóng cháy thuộc linh. Bác sĩ Lâm được cử làm đoàn trưởng của Đoàn Truyền Giáo. Lâm Y sĩ cũng mong ước sẽ bảo trợ cho 100 truyền đạo tình nguyện đi truyền bá Phúc âm.
Thành phố Đằng Huyên là một trong những nơi mà Tống Thượng Tiết và Đoàn Truyền Giáo Bê-tên chưa bao giờ đến viếng thăm. Tín hữu nơi ấy mời Tống Thượng Tiết đến để truyền giảng Phúc âm, nhưng nhà thờ không đủ rộng cho hội đồng, nên phải tạm thời căng lên một chiếc lều để có thể chứa được 1000 người. Số người đến dự đã vượt quá con số dự trù vì có nhiều đại diện ở nhiều nơi phái đến. Trường trung học đệ nhị cấp Hoàng Đạo có hơn 200 học sinh nam nữ được ơn Chúa. Có một sinh viên thần đạo vì bịnh tim phải nằm tỉnh dưỡng, nhưng sau khi cầu nguyện đã có thể đến dự nghe thuyết giảng và nhân đó đã được Chúa chữa lành. Có một người chị em, sau khi tốt nghiệp trung học đã mạo danh Chúa trà trộn vào Thần học viện. Cô học được 4 năm, đến ngày ra trường, nghe Tống Thượng Tiết giảng cô đã thú nhận tội lỗi với nhà trường, không nhận bằng cấp tốt nghiệp và xin cầu nguyện để được Chúa Thánh Linh thăm viếng.
Tống Thượng Tiết đến thành phố Lục Hiệp thuộc tỉnh Giang Tô vào tháng 3, nơi đây tín hữu rất ít nên những người đến tham dự đa số là các cụ già dốt nát và nghèo khó, quanh năm dành dụm nhiều lắm cũng chỉ được nửa đồng bạc! Đại hội kéo dài 7 ngày, ngày nào cũng có nhiều người thú nhận tội lỗi... Giáo hội ở đây quá nghèo, chỉ còn đủ khả năng dài thọ cơm nước 4 ngày nên những người đó nửa chừng đã phải bỏ về. Cũng rất may là hơn 300 nam nữ học sinh của 2 trường trung học đến dự nghe giảng, trong số đó cũng có các con em của các vị Mục sư. Hết thảy đã được Chúa thăm viếng và có nhiều học sinh được sự cảm động dâng hiến đời mình để hầu việc Chúa.
Trở về Thượng Hải, chỉ trong 3 ngày mà Tống Thượng Tiết đã giảng 16 bài bồi linh cho những đoàn viên của các đoàn truyền giáo. Ông Thạch Tân Ngã thông dịch, nhưng vì có 2 lần ông Thạch không kịp hiểu hết ý hay đã vấp váp trong khi dịch nên đã bị Tống Thượng Tiết “đuổi” xuống không cho dịch tiếp. Tình trạng này cũng thường xảy ra cho những vị dịch cho Tống Thượng Tiết. Về sau Thạch Tân Ngã kể lại những kinh nghiệm của ông: “Lối giảng của Tống Thượng Tiết rất sống động và đầy năng quyền. Các thính giả cho dẫu đứng chen chúc nhau để nghe, nhưng ai nấy đều tập trung tinh thần vào sứ điệp của ông. Tôi thấy diễn giả Tống Thượng Tiết đầy dẫy linh lực từ trên cao. Linh lực này như tràn khắp hội trường và chính cái linh lực này là nền tảng thúc đẩy những người nghe đã mạnh dạn bước lên phía trước để thú nhận tội lỗi kín giấu của mình. Riêng tôi có nhiều lúc cảm thấy mất mặt và rất bực bội với Tống Thượng Tiết, nhưng không bao giờ tôi dám có ý nghĩ thù hằn hay giận ông”.
II. TỪ HẠ MÔN ĐẾN ĐÀI LOAN
Sau lễ Phục sinh, Giáo hội tại Hạ Môn bắt tay vào việc chuẩn bị cho Đại hội Thánh Kinh cho Cơ-đốc nhân toàn quốc. Các Hội Thánh đã dâng hiến được 1.000 đồng để lo cho tổn phí di chuyển và ăn ở cho hơn 100 đại biểu từ miền Bắc đến. Từ đây, mỗi lần Tống Thượng Tiết giảng đều đề cập đến vấn đề hiện diện trong những buổi thờ phượng. Ông mong kêu gọi nhiều tín hữu hơn để phát triển Nước Trời trên đất.
Trong lúc ấy hệ phái Trưởng lão tại Đài Bắc cũng mời Tống Thượng Tiết ra Đài Loan để truyền bá Phúc âm. Đài Loan lúc bấy giờ đang ở dưới chế độ cai trị hà khắc của Nhật. Những người am tường tình hình chính trị đều khuyên can Tống Thượng Tiết không nên ra Đài Loan. Nhưng ông đã cầu nguyện và lòng ông đã quyết. Ông cũng e dè và cẩn thận bội phần. Hành trang của ông lần này rất nhẹ nhàng, không mang theo cây Thập tự, cũng không mang cả tập nhật ký v.v.. để cho “đối phương” khỏi nghi ngờ.
Ngày 15 tháng 4, Tống Thượng Tiết cùng với 2 anh em Vương Tống Nhân và Vương Tống Thành đến Đài Bắc. Việc trước tiên là Tống Thượng Tiết xin gặp ngài Tổng Đốc và được vị Tổng Đốc này sai phái vài người lính để làm cận vệ cho ông. Tống Thượng Tiết không nghĩ đến việc ngơi nghỉ, liền ra quân truyền bá Phúc âm. Các Hội Thánh lân cận nghe tin đều tụ hội về hơn cả ngàn người. Trong khi hội chúng đang nghe giảng, các viên cảnh sát theo Tống Thượng Tiết vì trách nhiệm “hộ tống”, đôi mắt họ cứ láo liên dò xét hết người này đến người khác. Những người muốn đi lên cầu nguyện cũng phải sợ sệt ngại ngùng. Nhưng vì được Đức Thánh Linh thôi thúc nên nhiều người cũng đã mạnh dạn lên phía trước và đa số là những Mục sư lãnh đạo các hệ phái, những chấp sự, trưởng lão… Cầu nguyện chữa bệnh là một trong số những vấn đề ở đây bị cấm ngặt, nhưng ân điển và quyền năng đã tràn dâng như nước lũ, không gì ngăn cản được những phép lạ của Ngài.
Trong một bài giảng, Tống Thượng Tiết đã mời 4 người lên trên tòa giảng để làm một thí dụ sống. Mỗi người mang trên ngực hình vẽ một trái tim, trong đó viết tên những thứ tội lỗi. Ông trình bày thật rõ ràng là chỉ có huyết của Chúa Cứu Thế mới rửa sạch được những tội lỗi đó. Trong số 4 người đó, có 1 người trên ngực có mang một cái bướu lớn , nhưng sau khi làm mẫu như vậy thì cái bướu lớn ấy đã tiêu đi mất. Có một người bị bệnh cấp tính, trong buổi giảng đã la lên đau đớn. Tống Thượng Tiết đã đặt tay cầu nguyện tại chỗ và người bệnh đã được lành. Cảnh sát Nhật nghe tin, sai nhân viên đến giám sát gắt gao hơn. Những bài giảng đều được ghi chép cách cẩn thận và những thư từ của thân hữu gửi đến cho Tống Thượng Tiết cũng đều bị kiểm duyệt rất kỹ. Một lần nọ, Tống Thượng Tiết muốn đến suối Lưu Huỳnh cách đó chừng vài chục dặm, ông cũng được một xe hơi chở đầy nhân viên cảnh sát chạy theo để “hộ tống”. Dướ sự giám sát gắt gao như vậy, nhưng Tống Thượng Tiết cũng cầu nguyện được cho 841 người và thành lập hơn 130 đội truyền bá Phúc âm. Các đội này không được phép đi truyền giảng công khai ngoài đường phố, họ chỉ được đi vào từng gia đình để chứng đạo cá nhân. Chính quyền Nhật tại Đài Loan rất nghi ngờ giai cấp trí thức tìm cầu chân lý. Vì vậy, nên cho dẫu đã xin phép nhiều lần, nhưng Tống Thượng Tiết chỉ được phép giảng Phúc âm cho giáo viên và học sinh của 1 trường mà thôi. Vào ngày thứ 7, có khoảng 80 học sinh đến nghe giảng. Nghe nói sau đó những học sinh này đều bị đuổi và ông hiệu trưởng người ngoại quốc cũng bị cách chức, ngôi trường này cũng đã được chính phủ quản lý!
Khi Tống Thượng Tiết đến Đại Trung thì những người đã từng được nghe giảng ở Đài Bắc đều kéo đến để được nghe thêm. Số thính giả ở Đại Trung do đó đã tăng lên gấp đôi. Ông đang giảng nửa chừng thì trời bỗng đổ cơn mưa, 2.000 thính giả đang ở trong một chiếc lều vải đã chen chúc nhau trú mưa và cầu nguyện trong 1 phòng chỉ có sức chứa đến 800 người! Họ đã cầu nguyện cho trời ngừng mưa và quả nhiên ngày hôm sau trời tạnh ráo.
Để tránh sự dòm ngó của chính quyền, Tống Thượng Tiết đã âm thầm bảo các bệnh nhân ghi tên họ và chứng bệnh vào 1 mảnh giấy. Ông đã bỏ qua phần xức dầu, chỉ có cầu nguyện cho các con bệnh mà thôi, Chúa đã thành tín và chữa lành cho họ. Trong hội trường, những người được chữa lành đã lớn tiếng hô to Ha-lê-lu-gia, nhưng ông ngăn họ bớt lại. Cũng may là sự kiểm soát của thành phố này không gắt gao như ở Đài Bắc, nên ít có sự ngăn cấm. Tống Thượng Tiết đã cầu nguyện cho 1.484 người.
Lúc đến Đài Nam, một số người nghe giảng tại Đài Trung lại tháp tùng đi theo khiến cho thính giả tăng cao. Có chừng hơn 5.000 người đã hội họp nhau trong một căn lều…
Chính phủ Đài Nam cũng phái 1 nhân viên đến ga xe lửa để nghinh đón Tống Thượng Tiết và xem ông như ngài Hạ Xuyên Phong Điểm. Việc canh phòng của cảnh sát ở Hà Nam lõng lẽo hơn những nơi khác nên sau khi tan trường các học sinh cũng có thể đến dự nghe giảng. Giáo hội đã xin phép chính phủ cho Tống Thượng Tiết cầu nguyện cho người bệnh. Chính phủ đồng ý cho phép, nhưng Chúa Thánh Linh của Đức Chúa Trời lại không cho, nên Tống Thượng Tiết đã không xức dầu đặt tay cầu nguyện cho một ai, dẫu vậy số thính giả vẫn đến càng ngày càng đông. Hơn 100 Hội Thánh phụ cận đều có phái 1 nơi ít nhất vài chục người đến dự, số thính giả lên hơn 3.000 người. Trong số 50.000 tín hữu ở Đài Nam thì có hơn 1 phần 5 đã đến dự đại hội này. Tống Thượng Tiết đã cầu nguyện cho đời sống tâm linh của 3.146 người. Thành lập được gần 600 đội đi ra truyền bá Phúc âm. Số người dâng đời sống để biệt riêng ra truyền bá Phúc âm cho Chúa lên hơn 600 người. Trong kỳ đại hội này, tín hữu đồng tâm dâng hiến tiền bạc, vòng vàng, nũ trang, châu báu… để làm kinh phí cho những đội ra đi truyền bá chân lý Phúc âm. Số tiền và nữ trang trị giá trên 4.000 đồng. Các Hội Thánh ở Đài Đông đã cử hơn 100 đại diện đến dự, mỗi người đã chi phí khoảng 50 đồng. Sau khi những đại biểu này hưởng được phước hạnh thiêng liêng trong kỳ đại hội thì nghĩ đến bà con, bạn bè và anh chị em trong các Hội Thánh nhà nên họ đã khẩn khoản mời Tống Thượng Tiết dành thì giờ đến Đài Đông. Nhưng linh trình của Tống Thượng Tiết đã được hoạch định rồi nên không thể nhận lời mời của họ được!
Ngày chia tay có hơn 700 người ra đến bãi biển để tiễn đưa, nhưng không có chi phiền hà xảy ra. Các nhân viên an ninh chỉ tịch thu 1 quyển lịch nhỏ. Chính quyền Nhật thấy Tống Thượng Tiết truyền giảng đầy quyền năng, khiến lòng người cảm động khóc sướt mướt và xưng nhận tội lỗi của mình. Họ sợ ông có ảnh hưởng mạnh với quần chúng, cổ động lòng dân gây nên những xáo trộn chính trị nên đã cho nhân viên anh ninh bảo vệ tối đa, không cho Tống Thượng Tiết gần gũi và tiếp xúc nhiều với quần chúng.
Có 600 tín hữu tại Đài Loan ghi danh đến Hạ Môn dự đại hội, nhưng chỉ có 300 người được cấp giấy phép xuất cảnh mà thôi... Chiến dịch truyền giảng tại Đài Loan đã để lại nhiều kỉ niệm khó quên. Trong một lần đang giảng, Tống Thượng Tiết bỗng chỉ vào 1 thính giả đang chăm chú nghe và nói: “Đáng trách thay là kẻ giả hình!”. Người mà ông điểm diện đó là vĩ trưởng lão họ Quách của Hội Thánh. Ông này biết là Tống Thượng Tiết chưa bao giờ gặp ông thì thể nào biết tích của mình rõ như vậy. Ông bèn nghi rằng vị Mục sư Sở tại đã nói cho Tống Thượng Tiết biết mọi điều về mình. Hôm sau, vị trưởng lão này ngồi vào một xó tối để nghe giảng, nhưng không ngờ, một lần nữa Tống Thượng Tiết chỉ ngay vào ông và nhắc lại: “Đáng chết thay là kẻ giả hình!”. Vị trưởng lão này càng tin chắc rằng vị Mục sư sở tại đã báo cáo ngọn nguồn với Tống Thượng Tiết. Ông ta rất căm giận, không thèm đến dự nghe giảng nữa, cũng cấm cả vợ không được bén mãng đến nhà thờ và có thề quyết là sẽ giết chết ông Mục sư sở tại! Một hôm vị trưởng lão này sai vợ đến mời Mục sư về nhà. Khi Mục sư vừa bước vào, vị trưởng lão rút ra 1 thanh trường kiếm sắc bén, định sẽ lấy hết sức đâm thẳng vào ngực Mục sư, nhưng trong lúc đó Mục sư được thúc giục quỳ xuống cầu nguyện. Lưỡi kiếm lệch đi, cắm thẳng vào vách và gãy làm đôi! Vị trưởng lão đã giác ngộ tội ác của mình to lớn quá bèn quỳ xuống bên cạnh vị Mục sư và khóc lóc xưng hết những tội lỗi của mình. Ông ta được Chúa thứ tha và đã trở thành 1 người kính yêu Chúa và phục vụ Ngài với tất cả tấm lòng.
III. KINH DIÊN THỊNH HỘI – ĐẠI HỘI VÀ HỌC KINH THÁNH
Trở về Hoa Lục, Tống Thượng Tiết đi ngang qua Xoa Thô để đến thành phố Trung Sơn, Những nhà lãnh đạo Hội Thánh nơi đây không hoan nghênh Tống Thượng Tiết nên ông phải tổ chức những buổi bồi linh tại ngoại ô cách xa trung tâm thành phố đến hàng chục dặm. Những tín hữu khao khát Lời Chúa đã không quản ngại những lời dàm tiếu, những sự ngăn trở của các vị lãnh đạo cũng như đường sá xa xôi. Họ đã rủ nhau đến dự nhóm để nghe giảng. Có những người mù cũng không ngại trời mưa gió, đường sá trơn ướt, họ bị té lên té xuống nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục đi. Có rất nhiều người ở lại ngoại thành chờ để được dự nghe bài giảng buổi tối.
Sau đó, Tống Thượng Tiết đến huyện Đài Sơn do lời mời của 1 nữ tín hữu và một số anh chị em. Nhưng những nhà lãnh đạo nơi đây cũng thuộc thành phần chống đối Tống Thượng Tiết. Họ đã xúi giục tín hữu không nên nghe lời giảng của “Tống khùng”! Nhưng những lời xúi giục đó đã vô hiệu.
Lúc bấy giờ, lãnh tụ Hồ Hán Dân vừa qua đời, vị Mục sư quản nhiệm Hội Thánh đã treo hình của vị lãnh tụ đó lên và mời toàn thể tín hữu đứng dậy để nghiêm túc chia buồn.. cũng đúng lúc đó có bác sĩ họ La đã bước lên nhẹ nhàng mang tấm hình ấy xuống và hướng dẫn hội chúng dâng lời cầu nguyện cho quê hương đất nước. Vị Mục sư quản nhiệm Hội Thánh tuyên bố là tất cả thư từ gởi cho Tống Thượng Tiết phải qua kiểm duyệt của ông. Mục đích ông muốn chận lại những số tiền con cái Chúa dâng để Tống Thượng Tiết làm lộ phí, nhưng chẳng may là không có một thư nào có tiền cả!
Tại Đài Sơn, Tống Thượng Tiết đã cầu thay cho 356 người. Trong khi đang cầu nguyện cho những người lên để xưng nhận tội lỗi, có một vị Mục sư dương mắt chăm chú nhìn, chính ông Mục sư đó là người vừa nghiện rượu vừa nghiện thuốc mà lại cứng lòng chẳng chịu hối cãi. Không đầy nửa năm sau, vị Mục sư này chết bất đắc kỳ tử vì một căn bệnh quái lạ!
Sau đó Tống Thượng Tiết đến thăm và giảng tại các Hội Thánh Trưởng lão, Giám lý và Ngũ tuần. Đến Quảng Châu mở một chiến dịch truyền giảng 10 ngày xong quay về Hồng Kông giảng cho 1 Đại hội truyền giảng và bồi linh từ 14 đến 23 tháng 6. Trong khi giảng tại các nơi này, Tống Thượng Tiết không quên khuyên tín hữu nên đến Hạ Môn để tham dự Đại hội Thánh Kinh.
Đã được chuẩn bị chu đáo từ lâu nên ngày 10 tháng 7 năm 1936, Đại hội Thánh Kinh lần thứ II của Cơ-đốc nhân được tổ chức đúng kỳ tại Hạ Môn. Học viên ghi danh chính thức là 1.600 người, công thêm những người từ Hạ Môn và đảo Cổ Lai đến ghi danh, tổng số lên đến hơn 2.000. Những tín hữu ưu tú của Thánh Giáo quốc nội và quốc ngoại qui tụ về cùng 1 thánh đường, quả là một đại hội lớn chưa bao giờ có. Mỗi ngày Tống Thượng Tiết giảng 2 bài; sáng từ 7:30 đến 11:00; tối từ 7:00 đến 10:00. Buổi nhóm lại tuy dài và đúng vào mùa hạ nóng bức, nhưng từ diễn giả cho đến thính giả không ai cảm thấy mỏi mệt. Đại hội bắt đầu học chương đầu sách Sáng Thế cho đến chương cuối của sách Khải Thị. Đúng ý nghĩa của một Đại hội Thánh Kinh chứ không là một Đại hội Phấn Hưng hay là Đại hội Truyền giáo. Đại hội này nhằm tôn cao Chúa Cứu Thế, đi sâu vào sự thánh hóa của cuộc sống Cơ-đốc nhân. Những bài giảng của Tống Thượng Tiết đều được ghi chép cách cẩn thận và đã được xuất bản tại Hạ Môn với nhan đề “Tống Thượng Tiết Giảng Kinh Tập” (những bài giảng của Tống Thượng Tiết). Sách dày gần 600 trang. Đại hội Thánh Kinh kỳ II đã được Chúa ban nhiều phước mới như sau:
1. Chúa đã dùng hội trường Tam Nhứt Đường mới xây cất tại đảo Cổ Lan (chưa kịp dâng cho Chúa)
2. Có tin đồn quân đội Quảng Đông sẽ khai chiến với quân đội trung ương. Cũng có tin đồn rằng cuộc chiến tranh Hoa - Nhật cũng có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Nhưng qua suốt kỳ Đại hội, các đại diện không ai bị nao núng mà tất cả đều tự do hưởng linh lương không có điều gì gây trở ngại.
3. Trường học của Giáo hội đã được mượn để làm nơi tạm cư cho các đại biểu. Giáo viên và viên chức nhà trường đều là những chiêu đãi viên phục vụ rất ân cần.
4. Tuy đã vào mùa hạ nhưng thời tiết vẫn mát mẻ.
5. Lo ẩm thực cho hơn 1.000 đại biểu không phải là chuyện dễ. Mặc dầu 3 bữa ăn là tranh giành với ruồi nhặng, nhưng không ai bị ốm đau.
6. Sau Đại hội, các chuyến xe và tàu đều khởi hành đúng giờ. Các đại diện đã lên đường bình an, sau đó ít hôm có một trận bão lớn thổi qua, nhưng không gây trở ngại gì cho các vị đại diện.
7. Trong kỳ Đại hội có một đại diện không có ghi danh trước. Vị này là người hành khất trên đường đi đến dự Đại hội, tất cả học viên của Đại hội đều rất cảm động vì hành động này.
Ma quỉ cũng đã hoạt động phá rối rất nhiều mặt. Buổi khai mạc Đại hội Thánh Kinh, Tống Thượng Tiết nghĩ rằng thông qua toàn bộ Kinh Thánh trong vòng 1 tháng quả là một thời gian quá ngắn ngủi. Nên Tống Thượng Tiết đã hối hả cho tranh thủ với thời gian. Như một cơn bệnh kinh niên gặp phải một lang y quá chậm: Người thông dịch cho Tống Thượng Tiết chậm chạp quá, không thể đáp ứng được nhu cầu của Đại hội nên ông như thường lệ đã thẳng thắn mời thông dịch viên này xuống khỏi bục giảng. Tuy người này đã xuống khỏi bục giảng nhưng lòng dạ của ông không chịu xuống. Ông đã viết bài đăng báo đả kích và gửi thư dọa nạt đủ điều, gây xáo trộn cho Đại hội không ít. Khi Tống Thượng Tiết xin lỗi người này rồi thì dẹp qua tất cả những lời công kích cũng như những thư từ dọa nạt để chuyên tâm nghiên cứu Kinh Thánh. Chúa Thánh Linh đã đích thân hướng dẫn và Đại hội đã bình an trong 1 tháng cùng nhau học hỏi Lời Chúa. Tống Thượng Tiết đã cấp chứng chỉ cho 972 người trung tín suốt kỳ Đại hội không vắng mặt một ngày nào. Trước khi chia tay, Tống Thượng Tiết ban lời từ giã như sau: “Các anh chị em thân mến, các anh chị cùng tôi làm việc trong suốt 30 ngày qua, công tác coi như hoàn tất. Đối với Đức Chúa Trời cũng như đối với loài người tôi không hổ thẹn vì tôi đã nói những điều Chúa muốn tôi nói. Những ngày đầu tôi e ngại cho sức khỏe của chính tôi và người thông dịch, nhưng cám ơn Chúa đêm hôm nay Chúa vẫn cho chúng tôi đủ sức đứng dậy để gặp mặt tất cả mọi người. Trong 1 tháng, Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho chúng ta mọi thứ nhu cầu để chúng ta an tâm nghiên cứu qua toàn bộ Kinh Thánh. Kể từ đây quyển Thánh Kinh này coi như 1 bức thư của quý vị. Bây giờ quý vị có thể mang về và tôi chỉ biếu cho quý vị một chiếc chìa khóa để quý vị có thể tự nghiên cứu. Trong đó còn ẩn tàng rất nhiều của quý đang chờ đợi, quý vị nên tiếp tục tự mình khai phá thêm. Điều tôi hoài mong là Đức Chúa Trời sẽ trọng dụng quý vị để làm những người lính tinh nhuệ cho Chúa trong những ngày cuối cùng, đó là mục đích tối hậu của Đại hội Thánh Kinh này. Không biết còn bao lâu nữa tôi sẽ lìa khỏi thế gian, nhưng tôi còn sống ngày nào là tôi phải làm cho xong bổn phận của mình ngày ấy. Tôi đã biếu cho quý vị Lời của Đức Chúa Trời mà Ngài đã giao thác cho tôi để sau khi tôi lìa đời thì có thể an bình mà gặp mặt Chúa. Trong 30 ngày này, tôi thường run sợ trước mặt Chúa vì cần phải rao giảng Lời của Ngài thật chính xác. Bây giờ nhiệm vụ của tôi đã hoàn tất, còn quý vị sẽ trở về quê hương của mình. Tôi chỉ có thể cầu nguyện cho quý vị, mong rằng công việc của kỳ Đại hội này mang lại kết quả lớn cho Chúa. Những người gieo giống trong nước mắt, sẽ gặt hái trong vui mừng. Tôi vững tin rằng Đức Chúa Trời sẽ không để cho Đại hội này ra luống công. Mặc dầu có nhiều người công kích báng bổ, nhưng trước mặt Chúa và trước mặt loài người có lương tâm, tôi không thấy xấu hổ. Tôi đã không quản ngại điều gì, tôi chỉ biết liều mình để truyền giảng Phúc âm. Tôi không tham lam tiền bạc và trong 1 tháng vừa qua tôi như bị cách biệt với thế giới bên ngoài. Nhiều người muốn thăm gặp tôi, nhưng tôi đã không thể tiếp họ lâu, tôi cũng chân thành xin những vị ấy thứ lỗi cho. Bất đắc dĩ tôi phải hành xử như vậy, vì mỗi ngày tôi phải chuẩn bị chu đáo cho những thức ăn thuộc linh để chia sẻ cho mọi người. Trong thời gian này, thư từ đến rất nhiều nhưng tôi cũng không có thì giờ để đọc những bức thư ấy. Sau cùng, tôi cầu mong Chúa ban phước cho quý vị. Mong quý vị về đến quê nhà sẽ khích động việc học Thánh Kinh. Các phước hạnh quý vị đã nhận được nhưng không thì cũng nên ban cho nhưng không. Trong 1 tháng qua, kinh phí tính ra thật là lớn lao, nhưng Đức Chúa Trời đã chu tất mọi sự cho chúng ta . Ma quỷ đã tấn công chúng ta tuy hung hăng, nhưng thật không đáng kể. Tôi chân thành cầu mong Đức Chúa Trời trọng dụng quý vị, khiến quý vị trở thành những tinh binh trong trận chiến cuối cùng. Tôi xin nhận chịu tất cả những lời phê phán trong vòng 1 tháng nay. Tất cả những điều khổ tâm chỉ có Đức Chúa Trời biết, Những hiểu lầm của con người, tôi xin giao phó tất cả cho Chúa.
Anh chị em thân mến, sau khi Đại hội bế mạc, có một vài người phải về Nam Dương, có người về Đài Loan, có những đại diện về Hoa Trung, Hoa Bắc v.v.. Mong Chúa trọng dụng quý vị như những ngọn đèn ở vùng Đông Nam Á, ở Đài Loan, Hoa Trung, Hoa Bắc. Còn những vị ở Hồng Kông và Quảng Đông, tôi biết quý vị sẽ chịu gian khổ nhiều hơn những người khác, nhưng tôi cũng cầu xin Chúa cho quý vị luôn đắc thắng. Các Đoàn Truyền Giáo tại miền Nam Phước Kiến tuy chưa gặp thời, tôi cũng cầu mong Chúa của chúng ta giữ gìn quý vị. Các anh chị em ở Hạ Môn và Cổ Lai, trong 1 tháng qua có nhiều việc gây khó khăn nhiều cho quý vị, tôi chân thành xin lỗi quý vị, mong rằng quý vị được an ủi từ nơi Chúa.
Xin thưa quý vị là ân điển của Chúa thật dư dật! Trước kỳ Đại hội tôi đã xin Chúa 3 điều:
- Thứ nhất, xin cho thời tiết mát mẻ, thuận tiện
- Thứ nhì, xin học viên có tinh thần tốt trong suốt thời gian Đại hội
- Và thứ ba, xin cho học viên đến dự có sức khỏe tốt.
Cám ơn Chúa, Ngài đã yêu chúng ta, không những suốt 1 tháng qua thời tiết thật lý tưởng, tinh thần của những buổi học đã ngày càng tốt hơn trong suốt thời gian Đại hội. Tuy phải chen chúc nhau trong hội trường, nhưng Chúa Thánh Linh đã giáng xuống đầy dẫy trên mỗi người, khiến cho ai nấy đều khao khát Lời Chúa. Tuy có vài người trong chúng ta đau yếu nhưng sau khi cầu nguyện, thảy đều được mạnh khỏe. Cảm ơn Chúa, vinh hiển quy thuộc Ngài, Ha-lê-lu-gia!
Cầu mong tình yêu của Đức Chúa Trời ở cùng quý vị trên đường về.
Những ân phước nhận được tại đây cần chia sẻ cho nhiều người, càng chia sẻ sẽ càng được nhiều hơn. Nếu không chia sẻ cho người khác thì mình cũng chẳng còn được lại gì.
Những ngày sắp tới hành trình của tôi cũng chưa dự đoàn được, nhưng tôi hoàn toàn đầu phục theo sự hướng dẫn của Chúa. Tôi e rằng năm sau sẽ không có Đại hội Thánh Kinh lần thứ III. Nhưng tôi mong rằng nơi nào có đôi ba anh chị em yêu mến Chúa, thì hãy tổ chức những buổi dưỡng linh với nhau.
Cầu xin Chúa ở cùng quý vị cho đến ngày Ngài trở lại. Amen.”
Đáng lý sau 1 tháng lao nhọc như vậy, phải có một thời gian để ngơi nghỉ, nhưng Tống Thượng Tiết đã phải đi ngay lên Phước Châu, tổ chức 7 ngày Đại hội tại Hội Thánh Chúa Cứu Thế. Những đại diện từ hải ngoại nhân kỳ nghỉ hè cũng về Đại hội rất đông để nhận sự gây dựng từ những cơ sở phấn hưng của các giáo hội miền Bắc Phước Kiến. Tại đây sự bắt bớ cũng rất dữ dội nên suýt nữa ông phải vào tù.
CHƯƠNG 43
XUỐNG MIỀN NAM LẦN THỨ NHÌ
(THÁNG 9 ĐẾN CUỐI 1936)
Khởi hành từ Thượng Hải đến Sarawac để giảng cho chiến dịch truyền giảng. Ngang qua Hồng Kông, Đoàn Truyền Giáo Cơ-đốc đã mời Tống Thượng Tiết ở lại giảng bồi linh. Lúc đến Tân-gia-ba, Đoàn Truyền Giáo tại đây cũng mời Tống Thượng Tiết đến giảng 3 ngày tại giáo đường A-Nhật với chủ đề là “Tình Yêu Thương”. Sau đó Đoàn Truyền Giáo triệu tập tất cả những đoàn viên để tổ chức dưỡng linh và hướng dẫn cho đoàn bầu cử những viên chức cho nhiệm kỳ II.
Thành phố Siêu Vu của Sarawac cũng gọi là Tân Phước Châu có một vị Mục sư ngoại quốc chống đối Tống Thượng Tiết kịch liệt, khi vị ấy qua đời, một giáo sĩ mới lên nhiệm chức thì cánh cửa truyền giáo nơi đó được mở toang. Động cơ nào đã thúc đẩy vị giáo sĩ mới này mời Tống Thượng Tiết? Số là có một tín hữu họ Lâm đã từng được nghe Tống Thượng Tiết giảng và được Chúa thăm viếng tại Ma-lắc-ca. Ông có tâm tình nóng cháy nên khi về đến Siêu Vu, đi ra truyền bá Phúc âm khắp các làng mạc chung quanh khiến Hội Thánh được phấn hưng. Cũng có một người chị em tín hữu sau khi được gây dựng tại Tân-gia-ba, đức tin tăng trưởng mạnh mẽ và cũng có ân tứ chữa bệnh. Hai người này là hạt giống truyền giáo của Tống Thượng Tiết, mang lại nhiều kết quả thiết thực cho Hội Thánh. Coi quả biết cây, vị giáo sĩ mới này nhận biết Tống Thượng Tiết không phải là một phần tử phá rối, làm chia rẽ Hội Thánh .. mà trái lại.
Tại thành phố Siêu Vu có khoảng 40 Hội Thánh, những năm trước đây người Trung Hoa nhờ Giáo hội nộp đơn xin thiết lập trường học. Giáo hội chủ trương nếu xây thêm 1 giáo đường. Do đó Giáo hội và học đường có liên kết trong việc truyền giáo. Việc truyền bá Phúc âm như vậy là do các giáo viên đảm nhiệm, nhưng họ chưa bao giờ được huấn luyện về thần đạo nên nền tảng giáo lý của họ không được vững vàng lắm. Những lúc nhóm họp, họ chỉ cho hát thánh ca, rồi kể những câu chuyện trong Thánh Kinh và những lời giáo huấn về luân lý đạo đức mà thôi... Có một vị giáo niên đã hỏi 1 phụ tá của Tống Thượng Tiết: Có phải Ni-cô-đem là mẹ của Ni-cô không? Trong tiếng Hoa, phiên âm chữ Ni-cô-đem là Ni-ca Để-mẫu. Từ đó cũng có thể thấy được sự thiếu hiểu biết của họ về Thánh Kinh là thể nào, dầu vậy cũng đáng mừng vì họ đã hỏi. Chứng tỏ họ là những người có tấm lòng khiêm nhường, họ lại không tự tỏ ra mình là những nhà lãnh đạo, không phô trương địa vị của mình, nhưng họ kiên nhẫn lắng nghe như những người khác và cũng cùng với hội chúng đưa tay lên xưng những tội lỗi của mình rất thành khẩn. Sự có mặt của họ tạo nên bầu không khí tốt đẹp cho sự nhóm lại thờ phượng, học Kinh Thánh.
Trong vòng 10 ngày từ ngày 21-9 đến 1-10, Tống Thượng Tiết đã hướng dẫn được 1583 người trở lại đầu phục Chúa. Đó là việc chưa từng có tại thành phố Siêu Vu trong vòng 100 năm nay. Mọi gia đình tại Siêu Vu đã được ảnh hưởng của chiến dịch truyền giáo này. Nhiều tín hữu tại Siêu Vu đã tháp tùng cùng Tống Thượng Tiết tới Si-lê-tê tham dự chiến dịch truyền giảng. Không xa nhà thờ lắm có một đoàn xiếc đang lưu diễn nên buổi truyền giảng cũng có ít nhiều trở ngại. Dân chúng trong vùng đa số sống bằng nghề cạo mủ cao su nên phải thức rất sớm, thường không mấy ai dám thức khuya. Vì vậy nếu không phải vì lòng rất khát khao chân lý thì không mấy ai đến dự nghe những buổi truyền giảng này. Nhờ thời tiết tốt nên nhiều công nhân trong đồn điền cao su có thể đến tham dự. Có một người chưa bao giờ bước chân vào nhà thờ nhưng những liên tiếp 3 hôm như có một tiếng nói thôi thúc trong lòng khiến người ấy phải đến nhà thờ và cũng ra lệnh phải đọc chương thứ 7 của Phúc âm Ma-thi-ơ. Người này rất đỗi sợ hãi tuân lệnh đến nghe. Quả nhiên ông được Chúa thăm viếng, nhận biết chính Đức Thánh Linh đã khuyến khích mình.
Tống Thượng Tiết không lùi bước trước mọi trở ngại , Sa-tan quấy phá cũng không kém. Một vác sĩ trong vùng thấy Tống Thượng Tiết cầu nguyện chữa bệnh mà chín phần mười bệnh nhân của ông đã được chữa lành. Mất lối lợi nên ông đã rủa sả và phỉ báng Tống Thượng Tiết rất thậm tệ, đồng thời kiện cáo với chính quyền. Việc này đã gây xáo trộn trong hội trường không ít. Ngoài ra viên bác sĩ này còn kêu gọi thêm những bác sĩ Tây phương công kích Tống Thượng Tiết về 3 vấn đề: (1) làm xáo trộn trật tự địa phương, (2) cầu nguyện chữa bệnh là giả dối, (3) lừa bịp để lấy lòng quần chúng. Tống Thượng Tiết không biết những hành động ghen tị của ông ta, chỉ một lòng cầu nguyện xin Chúa xót thương, cứu chuộc và biến đổi vị bác sĩ này.
Lâm Hồng Chí là một người rất được dân chúng Ma-lắc-ca tín nhiệm và kính phục, nhưng Tống Thượng Tiết không nhớ vì thấy rằng ông ta là người chủ trương báp-tem tam nhất (phải làm báp-tem 3 lần), cũng là người đưa ra dự đoán ngày giờ Chúa trở lại. Đức tin lệch lạc như vậy cần phải chấn chỉnh lại.
Sau đó, Tống Thượng Tiết hoạt động tại thành phố Pasal và Ku-la-lam-pur. Sau cùng là ông ta đến thành phố Pe-nang. Vị đại diện Hội Thánh Kinh Hội của thành phố này ngày trước có ở Hạ Môn và đã mời Tống Thượng Tiết đến thăm thành phố Penang, nhưng khi ông tới nơi này thì người này lánh mặt. Lúc ấy ông ta đang lo xây cất nhà thờ và nghĩ rằng mời Tống Thượng Tiết đến sẽ có ảnh hưởng không tốt đến việc dâng hiến của tín hữu! Thật là một ý nghĩ ích kỷ lạ lùng. Đúng ra nếu tín hữu thật sự được Chúa thăm viếng thì càng vui lòng hiến dâng cho công việc của Chúa. Tại sao họ nghĩ ngược lại? Có một vài tín hữu trách Tống Thượng Tiết rằng, trong khi chờ đợi tàu đi Rangoul, tại sao không tận dụng thời gian để truyền giảng? Ông trả lời là vị Mục sư quản nhiệm đã viết thư cho biết là phải đợi khánh thành nhà thờ đã, rồi mới truyền giảng được. Các tín hữu này tức tắc đến gặp Mục sư của họ để can thiệp. Vị Mục sư này buộc lòng phải mời Tống Thượng Tiết giảng tại một nhà thờ của Hội Thánh bạn, nhưng Tống Thượng Tiết lấy lý do là cả đôi bên đều không chuẩn bị nên đã khước từ buổi truyền giảng đó.
Hội Thánh tại Rangoul, Miến Điện không có Mục sư quản nhiệm. Tạm thời 12 vị chấp sự luân phiên nhau chăm sóc Hội Thánh. Ngày trước có một Mục sự ngoại quốc đến quản nhiệm, nhưng bây giờ người Trung Hoa tự đảm nhiệm công việc, đóng góp tiền của để duy trì những sinh hoạt trong Hội Thánh. Viên giám đốc của hệ phái này vốn không tán thành việc tự lập như vậy, cho nên nhân dịp Hội Thánh Giám lý đang triệu Đại hội thường niên, ông này liền đăc biệt mời Tống Thượng Tiết đến để giảng 1 bài. Ông ta hy vọng rằng Tống Thượng Tiết sẽ khuyên 12 vị chấp sự nên bỏ ý định tự lập đi mà nên tiếp tục trực thuộc vào các giáo sĩ ngoại quốc để tiếp tục có sự “hiệp nhất” và sinh hoạt của Hội Thánh “không bị ngăn trở”. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng vị Giáo sĩ Giám đốc này không có ý định thâu hồi quyền tự trị của Hội Thánh và xưa này ông không hề xen vào chuyện nội bộ của các Hội Thánh nên ông không đả động gì về việc này.
Cũng có một Hội Thánh do Mục sư họ Trần quản nhiệm, tín hữu không tới 10 người. Khi Tống Thượng Tiết đến giảng thì vị Mục sư ấy là người đầu tiên đứng lên xưng nhận tội lỗi. Ông ấy tuyên bố rằng: “Tất cả những việc tôi làm đều là giả dối. Nhiều năm qua tôi không biết rõ những giáo lý căn bản, nên tôi có tội nặng nề với Chúa”. Ông ta đã khẩn thiết cầu nguyện với Chúa và Đức Thánh Linh đã thăm viếng ông. Về sau ông cũng thường kiêng ăn cầu nguyện và đã trở nên đầy năng quyền giảng dạy và có sức thuyết phục con người trở về cùng Chúa. Chúa cũng cho ông có ân tứ cầu nguyện chữa bệnh. Ông tâm sự với Tống Thượng Tiết rằng: “Tôi bây giờ mới thật có sự vui mừng thật của Chúa!”.
Khi Tống Thượng Tiết truyền giảng tại Miến Điện chỉ có một người chị em dịch ra một tiếng Phước Kiến. Trong số thính giả thì có đủ người có tiếng nói khác nhau, lại cũng có rất nhiều thính giả người Ấn Độ. Tuy họ không hiểu những thấy cũng có người cảm động và khóc lóc. Tống Thượng Tiết rất lấy làm lạ, nhất là trong giờ cầu nguyện chữa bệnh. Nhiều người trong số họ đã đến dù cho không hiểu tiếng, nhưng và bệnh tật cũng đều được chữa lành.
Về sau đó, những người Ấn đã tiếp xúc với Tống Thượng Tiết và ngỏ ý mời ông qua Ấn Độ truyền bá Phúc âm cho đồng bào của họ. Tống Thượng Tiết nói rằng: “Bắt đầu từ đấy, tôi thấy tôi cũng mắc món nợ Tin Lành với người Ấn Độ nữa!”.
Khi quay lại Mã Lai để truyền giảng thêm 1 đợt nữa, ông đã đưa dẫn thêm được 400 người tin nhận Chúa. Hội Thánh tổ chức lại những đội ngũ truyền bá Phúc âm để bù đắp vào những đội đã lưu lạc đi những nơi khác. Tiếp theo, Tống Thượng Tiết giảng cho 1 Đại hội phấn hưng do đoàn viên của Đoàn Truyền Giáo đã chuẩn bị. Sau đó tổ chức Đại hội Thánh Kinh Tân-gia-ba và Mã-lai-Á trong 1 tuần để nghiên cứu Ngũ Kinh Môi-se, sách tiên tri Đa-ni-ên, Phúc âm Lu-ca và Thư La-mã. Ngày bế mạc Đại hội Thánh Kinh (20/12/1936) cũng là ngày kết thúc chiến dịch Truyền giáo tại vùng Đông Nam Á Châu. Những nhà lãnh đại Hội Thánh sợ không có kinh phí nên không dám tổ chức Đại hội Thánh Kinh, nhưng được Đoàn Truyền Giáo đã dâng 800 đồng, nên đã triệu tập các học viên đến dự. Trong đó có 1.000 người đại diện cho liên bang Mã-lai-Á (chiếm 1/3 tổng số học viên). Sau khi Đại hội Thánh Kinh chấm dứt, Tống Thượng Tiết mời tất cả đại diện đến trà đàm và xin họ cứ thẳng thắn kiểm thảo. Các đại diện đã chân thành thổ lộ tâm tình của mình và ông cũng bộc lộ tâm tư của ông, nên đã xóa tan hết những hiểu lầm còn lại trong lòng của nhau. Ngày 22/12/1936, Tống Thượng Tiết trở về Thượng Hải bằng chiếc tàu biển của nước Ý. Số tín hữu ra bến tàu tiễn đưa ông có đến hàng ngàn người, cũng có nhiều người cảm kích, thương mến, cũng nhiều người lưu luyến chảy nước mắt để tiễn đưa. Ngày hôm sau, tờ thời báo Straight Times đã đăng tin như sau: “Hôm qua con tàu Contair Verdi của Ý rời bến, trên ấy có 1 hành khách trẻ tuổi Trung Hoa. Có đến hàng ngàn người đưa tiễn với sự thương tiếc ngậm ngùi, một cuộc tiễn đưa đầy nước mắt... Người Trung Hoa trẻ tuổi ấy là nhà truyền giáo Tiến sĩ Tống Thượng Tiết. Ông ta lên đường trở về Trung Quốc sau khi đã chủ trì 2 Đại hội truyền giáo tại Tân-gia-ba và Mã-lai-Á. Những khách đưa tiễn như muốn tràn ngập cả boong tàu, trong phòng khách và tràn ra cả trên bến... Trên tay họ cầm những lá cờ nhỏ, vẫy chào như tiễn đưa 1 vị đại quốc khách. Tống Thượng Tiết đã dùng 1 bài văn ngắn như một lời giã biệt với những người thân của ông. Họ cất tiếng hát những bài Thánh ca để tiễn đưa, hơn phân nửa không kềm giữ được sự xúc động của mình nên đã để cho nước mắt tuôn trào. Họ đang từ biệt một sứ giả truyền giảng Phúc âm nóng cháy. Sứ giả này, ngày xưa lúc du học tại Hoa Kỳ đã từng bị người ta nhốt vào bệnh viện tâm thần, bây giờ là người dẫn dắt ngàn ngàn người Trung Hoa tin nhận Chúa Cứu Thế”.
Tống Thượng Tiết với phương pháp truyền giảng không theo truyền thống cũ khiến cho những nhà lãnh đạo thủ cựu phải nhức đầu. Ông đã làm cho Cơ-đốc giáo và chính ông trở nên những đề tài phong phú trên mặt báo tại những nơi mà ông đặt chân đến. Chẳng những Mã-lai-Á mà tất cả những nơi đến đều gây được một không khí thật sôi động và dẫn đưa nhiều người đầu phục Chúa Cứu Thế Giê-su... Trong số hàng trăm người Huê kiều trên con tàu này, đa số là công nhân xne lẫn những sinh viên nam nữ, trên ngực đeo huy hiệu của Đoàn Truyền Giáo, trên tay cầm lá cờ nhỏ có chữ thập, ai nấy đều chăm chú nhìn vào Tống Thượng Tiết. Ông nói rất ít, có khi chỉ thầm thì một vài câu rất nhỏ với người bên cạnh. Kế đó, họ đã trổi lên hát Thánh ca và lan dần, ai nấy đều hát theo. Các hành khách khác cũng như nhân viên trên tàu đều nhìn Tống Thượng Tiết với vẻ kinh ngạc. Ngạc nhiên hơn cả là những Linh mục từ La-mã về Viễn Đông, các vị ấy không hiểu đoàn người vẫy lá cờ có cây thánh giá kia là có ý gì? Họ không thể nhận ra được người được đưa tiễn thịnh trọng như vậy lại là một người trẻ tuổi có vẻ như một đấu thủ quần vợt hơn là một nhà truyền bá Phúc âm...
CHƯƠNG 44
CÔNG TÁC TRƯỚC ĐÊM QUỐC NẠN
(THƯỢNG BÁN NIÊN 1937)
I. QUẢNG ĐÔNG-PHƯỚC KIẾN
Về đến Thượng Hải vào cuối năm 1936. Vào tháng 2 năm 1937, Tống Thượng Tiết băng qua Xoa Thô để đến Triều Châu, hơn 1.000 người tại Triều Châu đã được Chúa thăm viếng. Đoàn Truyền Giáo tại Yết Dương khá vững vàng. Ông tổng đoàn tưởng bằng đức tin thành lập 1 Hội Thánh, tín hữu hơn 100 người. Tống Thượng Tiết đích thân đến tận nơi để gây dựng cho họ. Hai Hội Thánh Báp-tít và Trưởng lão tranh nhau mời Tống Thượng Tiết khiến ông rất khó xử! Nhưng vì chân đang bị đau, nhà thờ của Hội Thánh Báp-tít lại gần chỗ Tống Thượng Tiết cư ngụ nên ông đã nhận lời mời của hệ phái này, khiến cho hệ phái Trưởng lão không được vui. Họ đòi lại tất cả chăn mền đã cho ông mượn. Tống Thượng Tiết định khiển trách những nhà lãnh đạo Trưởng lão nhưng được Chúa nhắc nhở phải nhu mì, khiêm nhường, nên ông đã có lời tạ lỗi cùng hệ phái Trưởng lão vì sợ họ có hiểu lầm và 2 bên có sự ngăn cách. Có 2 điều khiến cho Tống Thượng Tiết được khích lệ: Một nông dân tại nơi đây đã mơ thấy rất nhiều người leo lên cây để nghe Tống Thượng Tiết giảng nên ông đã bán một vị khoai lang để có tiền đến dự Đại hội, nhưng chưa kịp bán thì được 1 người bạn từ Đông Nam Á gửi về cho 200 đồng nên cả gia đình đều đi dự được. Quả nhiên khi đến nơi thì thấy Đại hội nhóm họp ngoài trời, người dự thính đông không xiết kể...
... Nhân ngày tất niên Âm lịch, những nhà lãnh đạo các Hội Thánh tại Xoa Thô yêu cầu nghỉ nhóm Đại hội và giảng phấn hưng. Vào mồng một Tết và Chúa nhật đầu năm chỉ nhóm lại làm lễ Tạ ơn Tân Xuân. Tống Thượng Tiết không thấy thích thú với việc đón Tết, vui Xuân nên đã triệu tập các đoàn viên Đoàn Truyền Giáo lên núi để huấn luyện vào sáng ngày mồng một Tết , còn sáng Chúa nhật đầu năm vẫn nhóm lại thờ phượng như thường,, buổi chiều và tối thì truyền giảng. Những người trong Hội Thánh tuy bề ngoài phải chấp thuận, nhưng trong lòng không mấy vui. Trên danh nghĩa thì các Hội Thánh đã hiệp nhau lại mời Tống Thượng Tiết đến ban phát Lời Chúa, trong số đó có Hội Thánh Phổ Ích Xã, nhưng hôm ấy, Hội Thánh này lại mời một diễn giả khác để tỏ thái độ chống đối Tống Thượng Tiết. Nhưng chẳng sao, các tín hữu tại Xoa Thô có lòng nóng cháy nên hôm ấy nhà thờ Bê-tên đông nghẹt người đến dự nhóm. Những người này đã phải hy sinh buổi tiệc đêm 30 và những ngày Tết Nguyên Đán, họ đến nhà thờ sớm, mong có chỗ ngồi phía trên để dễ tiếp nhận những món ăn thuộc linh. Buổi chiều Chúa nhật, trong chương trình đến mục dâng hiến, Tống Thượng Tiết đã ngăn lại vì cho rằng 1 buổi giảng phấn hưng không phải là 1 buổi thờ phượng của ngày Chúa nhật. Trong số thính giả rất nhiều người lần đầu tiên đến dự nghe giảng. Các tín hữu trong giờ thờ phượng sáng đã dự phần dâng hiến rồi, buổi chiều chắc chắn là không sẵn sàng, nên dâng hiến thêm 1 lần nữa là không nên. Vì lý do đó mà gây nên một điều không được vui giữa Tống Thượng Tiết cùng những nhà lãnh đạo Hội Thánh. Họ ngấm ngầm tìm cách trả đũa lại. Buổi giảng phấn hưng nào cũng kêu gọi hội chúng dâng hiến, đến ngày cuối cùng họ mở thùng dâng hiến ra, kiểm lại thì số dâng hiến lên đến 400 đồng, nhưng họ chỉ biếu cho Tống Thượng Tiết 100 thôi. Hội chúng thấy tấm lòng nhỏ nhen của họ thì lấy làm khó chịu và bất mãn!
Những vị Mục sư và giáo sư tại thành phố Vĩnh Xuân đã chứng kiến ngọn lửa phục hưng bùng cháy tại Hạ Môn, nên rất mến phục Tống Thượng. Họ đã mời Lâm Phối Khiên và khuyên ông nên bắt chước Tống Thượng Tiết đến giảng phục hưng. Nhưng bây giờ chính Tống Thượng Tiết đích thực đã đến đây nên họ rất cảm kích và vui mừng. Ngoài tín hữu địa phương, các nơi khác đã qui tụ về hơn 700 người. Hội trường lại quá nhỏ nên phải tổ chức ngoài trời. Lúc đó đang mùa nắng gắt nên hội chúng đã phải căng lên những chiếc mền thay cho vải lều. Sa-tan cũng tăng cường phá khuấy. Nó xui giục dân chúng quanh vùng đốt pháo để đối lại những bài Thánh ca của hội chúng. Trong lúc ấy, một vị Mục sư Tây phương từ Hưng Hóa đến báo cáo khẩn cấp là bầy chiên của các Hội Thánh ở đây đã bị các “bầy nhỏ” rủ rê đi hết, mong Tống Thượng Tiết đến gấp để cứu vãn tình hình. Ông chỉ khuyên họ phải cầu nguyện thật nhiều.
Trong thời gian hoạt động tại thành phố Vĩnh Xuân, Tống Thượng Tiết đã đặt tay cầu nguyện cho 1.012 người, thành lập được 200 tổ truyền giáo, nhưng ông đã phát biểu rất khiêm tốn: “Nền tảng vững chắc là do Lâm Phối Khiên xây đắp, tôi chỉ là người gặt hái thành quả của người anh em ấy thôi!”.
Trên đường về Thanh Hóa, khi ngang qua Tuyền Châu, các nhà lãnh đạo các Hội Thánh ra ga xe lửa để gặp mặt Tống Thượng Tiết. Trong lúc đó nhân viên hỏa xa cho biết rằng đường rây có trở ngại nên không thể lên đường đi Hưng Hóa ngay được, nên họ đã tận dụng thì giờ tổ chức được 2 buổi giảng bồi linh và Tống Thượng Tiết đã nhân cơ hội này khuyên nhủ, khích lệ anh em yêu thương nhau.
Về đến Hưng Hóa, một mặt về thăm mẹ, một mặt tổ chức những buổi giảng bồi linh, nhưng tín hữu tại quê hương lại không mấy nhiệt tình khiến ông vô cùng thất vọng. Dầu vậy, Chúa cũng an ủi tôi tớ Ngài. Có một vị y sĩ bỏ nhà thờ ra về, nhưng Chúa Thánh Linh thôi thúc, ông bèn trở lại để công khai ăn năn thống hối trước mặt Chúa. Lại có một người đàn bà tên là Ngô Ngũ Muội, cánh tay mặt bị tê liệt đã lâu năm, không chải tóc được. Sau khi giảng xong, Tống Thượng Tiết đã có lời kêu gọi thính giả lên xưng nhận tội lỗi và cầu nguyện. Người đàn bà teo tay này cũng theo dòng người đi lên. Tống Thượng Tiết không biết cánh tay người này bị teo nên chỉ cầu nguyện cho bà được tha tội mà thôi. Nhưng lạ thay, khi tội lỗi được tha thì cánh tay của bà cũng lành theo.
Giảng 4 bài tại Phước Châu xong thì Tống Thượng Tiết đến Diên Bình. Đây là nơi ông đã bị đả kích và tẩy chay năm 1929. Bây giờ tình hình đã xoay chuyển hẳn, tất cả các Mục sư, giáo sư đều đến tham dự đông đủ, số thính giả lên đến 500 người. Thoạt đầu các sinh viên cũng tỏ ý coi thường Tống Thượng Tiết, nhưng ông đã cứ nhịn nhục. Đến ngày cuối, Tống Thượng Tiết cầu nguyện cho những người bệnh. Có một em bé mù từ khi mới lọt lòng mẹ đã được Chúa cho sáng mắt. Người mẹ bồng em trong lòng, thấy em nhìn ngắm được, bà ta vừa sợ vừa mừng. Những người vốn coi thường Tống Thượng Tiết nay ánh mắt họ nhìn ông đã đổi khác. Một người bị bán thân bất toai cũng được Chúa chữa lành. Những người thuộc phái duy lý thấy vậy cũng phải tin quyền năng chữa bệnh. Những người xin được cầu thay lên đến 400.
Tại thành phố Kiến Âu có một số tín hữu ngày trước đã được Chúa thăm viếng trong kỳ Đại hội Phước Châu, hiệp nhau mời Tống Thượng Tiết về giảng phục hưng và truyền giáo. Con đường đến Kiến Âu thường có cướp bóc, nhưng vì được Chúa sai đi nên Tống Thượng Tiết đã không ngần ngại và bất chấp cả những hiểm nguy dọc đường. Hai vị thông dịch viên cũng tháp tùng cùng Tống Thượng Tiết. Giữa đường xe bị tai nạn, đâm vào 1 chiếc xe chạy ngược chiều. Hành khách nhiều người bị thương, riêng Tống Thượng Tiết và 2 thông dịch viên thì vô sự nhờ Chúa che chở phủ bao.
Khi Tống Thượng Tiết truyền giảng trong nhà thờ của hệ phái Episcopal, hệ phái này kính trọng khu vực của bàn thờ. Những nhà lãnh đạo Hội Thánh đã lợp lên một giảng đài tạm thời trước nhà thờ vì họ không muốn khu vực bàn thờ bị hội chúng tràn ngập. Nhưng thính giả ngày càng đông nên giảng đài tạm thời phải dần dần dời lại phía sau. Cuối cùng khu vực bàn thờ cũng bị tràn ngập nên đành bó tay. Tống Thượng Tiết giảng đến ngày thứ 6 thì người thông dịch bị tắt tiếng, không nói được ra lời nữa, nhưng chẳng kiếm được ai thay thế nên chỉ biết cầu nguyện nhờ sự thương xót của Chúa. Trong chiến dịch này, những người được cứu lên đến 500, cầu nguyện cho 408 người. Tình yêu của Chúa có tác động diệu kỳ trên những sinh viên kiêu ngạo và cứng lòng, nay họ mềm mại và đầy tình thương, quan tâm đến những bạn hữu chưa biết Chúa và thường thành khẩn cầu thay cho các em. Ban tổ chức Đại hội quan niệm rất đứng đắn rằng việc tối quan trọng là cứu rỗi linh hồn đồng bào nên đã miễn phí ăn ở cho những đại biểu nghèo từ xa đến tham dự Đại hội.
Sau chiến dịch truyền giáo tại Phước Châu, Tống Thượng Tiết định một thân một mình, không mang theo hành trang gì đến thành phố Cổ Điền. Những xe đò sợ thổ phỉ cướp phá nên không dám khởi hành, nhưng ông lại nhận được điện thoại báo cho biết sẽ có 4 chiếc xe quân đội hộ tống cho đoàn xe đò, nên Tống Thượng Tiết đã đến Diên Bình một cách bình an. Từ Diên Bình, ông đáp tàu đi Cổ Điền. Trên tàu chật quá, không còn một chỗ để ngã lưng. Ông kinh nghiệm được phần nào cái cảnh “không có chỗ gối đầu”.
Tại Cổ Điền, Tống Thượng Tiết gặp nhiều khó khăn ngăn trở: Một vị giáo sĩ Tây phương nào đó cho là mình có những phương pháp truyền giáo mới nên không tán thành việc làm của Tống Thượng Tiết. Trong những buổi truyền giảng lúc nào cũng có những quấy phá như chó chạy vào nhà thờ, bóng đèn rơi xuống bất thường, thông dịch viên phải thay đổi luôn vì bị khàn tiếng và mệt mỏi. Lúc bấy giờ đúng vào ngày lễ Phục sinh nên những người ở trọ đều về nhà, hơn nữa thời tiết lại mưa gió bất thường. Tuy vậy số người đến dự nghe vẫn rất đông, có đến trên 1.500 người.
Tại thành phố Phước Thành cũng có một số giáo viên chống đối Tống Thượng Tiết, họ cấm không cho học sinh đến cầu nguyện. Đảng bộ Quốc Dân Đảng cũng có một số đảng viên chống đối Tống Thượng Tiết. Ông thị trưởng định cấm truyền giáo nên đã ra lệnh cho 10 cảnh sát viên đến giữ các cổng không cho tín hữu ra vào. Có 2 nữ tín hữu đến ra mắt thị trưởng và chất vấn rằng: “Phải chăng nơi nhóm họp tôn giáo là phi pháp chăng? Chế độ này không cho tự do tín ngưỡng chăng?”. Ông thị trưởng đáp rằng: “Đó là do chính các người trong giáo hội của các bà đã tố cáo. Họ cho rằng Tống Thượng Tiết không truyền bá chân lý, ông ta là một phần tử nguy hiểm”. Hai bà này liền xin ông ta phái người đến để quan sát, phán đoán những lời giảng của Tống Thượng Tiết. Ông thị trưởng đã làm theo lời đề nghị của 2 bà. Người giám thị nghe Tống Thượng Tiết giảng đề tài “Người con trai hoang đàng”. Đến nử chừng thì tay chân run rẩy, không sao ghi chép được, thế nhưng ông ta vẫn chưa chịu ăn năn hối cãi. Một viên giám thị khác họ Cao, định bụng khi Tống Thượng Tiết giảng xong sẽ đứng lên chất vấn, bài bác Tống Thượng Tiết. Nhất là khi hội chúng hát bài “Không nên khuất kế Sa-tan” để đáp ứng lại lời giảng, thì viên giám thị này càng nộ khí xung thiên lên la hét ầm ĩ, về báo cáo cùng ông thị trưởng nên ông ta đã ra lệnh tầm nã, bắt Tống Thượng Tiết. Hai nữ tín hữu kia cũng không kém, đến mời ông thị trưởng đích thân đến nghe giảng. Ông ta đồng ý và khi nghe Tống Thượng Tiết giảng bài “Gánh nước chết”. Ông ta đã cảm động rơi nước mắt, ông đã ra lệnh cho hội chúng được phép nhóm lại nghe giảng, ngợi khen Chúa! Nhưng khó khăn vẫn chưa hết, trong lúc đó lại có đại hội thể thao cũng được tổ chức trong thành phố này. Hầu hết các học sinh đều tham gia đại hội này. Có rất nhiều người nửa chừng đã bỏ về để đi nghe truyền giảng. Hai ngày sau cùng của Đại hội truyền giáo đã phải tổ chức 4 buổi giảng mỗi ngày, để bù đắp lại những ngày thiếu vắng, vì sợ học sinh không còn cơ hội để nghe Phúc âm. Sau kỳ Đại hội này, một giáo sĩ ngoại quốc dành riêng cho Tống Thượng Tiết một chiếc xe hơi để trở về Hưng Hóa. Có đến gần 500 tín hữu đến ca hát để tiễn đưa Tống Thượng Tiết lên đường.
Tống Thượng Tiết đã nhiều lần khước từ lời mời về Hưng Hóa, vì ông nghĩ rằng: “Tiên tri không không được tôn trọng nơi quê hương mình”... Nhiều lắm cũng có chừng 7,8 trăm người đến tham dự, hơn nữa Đảng Bộ Quốc Dân Đảng nơi ấy cũng đang để ý đến Tống Thượng Tiết rất nhiều, nhưng Đức Thánh Linh đã thôi thúc ông: “Chẳng phải nhiều năm qua con đã cầu thay cho Hội Thánh quê hương của con sao? Con không muốn thấy quê hương con phục hưng sao?”. Tống Thượng Tiết không dám dập tắt Chúa Thánh Linh nên cứ để Ngài hướng dẫn bước đường của ông. Tình hình trên thực tế không sao ngờ được, thính giả đến nghe Tống Thượng Tiết giảng có hơn 4.000 người. Gần 2.000 người được cứu. Có đến gần 200 người tình nguyện dâng mình hầu việc Chúa. Thành lập được 400 tổ truyền giáo. Hơn nữa số thân hữu, những người đồng công, những tín hữu lâu năm ăn năn hối cãi tội lỗi rất đông, cũng có những giáo sĩ Tây phương đến nhờ Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện và nhiều người bệnh đã được Chúa chữa lành... Tống Thượng Tiết không những rất vui mừng mà còn thấy đức tin của mình thật còn quá nhỏ bé... Hội Thánh có đặt 2 thùng để đựng tiền dâng hiến: Một để lo chi phí của Hội Thánh và một để lo kinh phí cho Tống Thượng Tiết đi truyền giáo. Khi kiểm tiền thì thùng đựng tiền lộ phí cho Tống Thượng Tiết được 270 đồng và ông đã dâng lại tất cả cho Hội Thánh.
II. GIANG TÔ, TRIẾT GIANG, HÀ NAM VÀ GIANG TÂY NGANG QUA HẠ MÔN ĐẾN THƯỢNG HẢI
Tống Thượng Tiết dừng tại Hội Thánh Thanh Tâm Đường để chia sẻ những kinh nghiệm và những điều học hỏi được trong những chuyến đi truyền giáo vừa qua, sau đó ông đến Nam Kinh. Mục sư Giản Mỹ Thăng mời Tống Thượng Tiết về lưu lại tại nhà và hàng ngày cầu nguyện cùng với Mục sư Schubert. Đây là một điều khích lệ trong cuộc đời Tống Thượng Tiết.
Các Hội Thánh tại Nam Kinh phối hiệp mời Tống Thượng Tiết giảng 10 ngày cho Đại hội. Thành quả lớn trong vòng truyền giáo này là đã gặp được Mục sư Giả Ngọc Minh và 2 người đã đồng công thành lập một Linh Tu Học viện. Lúc sơ giao, Tống Thượng Tiết những tưởng Mục sư Giả Ngọc Minh theo phái Linh Ân nên cũng không dám hợp tác chặt chẽ lắm, sau ông thấy những sinh viên của Học viện có đời sống thuộc linh nóng cháy và lòng yêu Chúa của họ thật là thắm thiết, nên những thành kiến được xóa tan. Sau này trong những vòng truyền giảng, Tống Thượng Tiết thấy những người có tâm tình muốn hầu việc Chúa và tỏ ý muốn học thêm Lời Chúa, ông rất ân cần giới thiệu cùng họ nên đến theo học ở Linh Tu Học viện.
Khi đến Hàng Châu, Tống Thượng Tiết nói rõ là sẽ không khiển trách các giáo sư, chấp sự trong Hội Thánh nữa, mà chỉ khuyên họ nên lấy tình yêu thương mà cư xử cùng nhau, nên những vị lãnh đạo Hội Thánh rất vui vẻ đến dự Đại hội. Cũng có những giáo sĩ ngoại quốc cùng tín hữu của các “bầy nhỏ” đến tham dự, nên các tấm lòng đố kỵ ở Tô Châu và Linh Ba đã được rộng mở. Tuy nhiên vì sự quấy phá của phiến loạn quân nên ngoại trừ thành phố Hải Châu, những nơi khác không ai đến dự được.
Tiếp tục cuộc hành trình, Tống Thượng Tiết đã đến các thành phố Lạc Dương, Vận Thành, Hứa Xương, Tí Dương và Chính Dương v.v.. Tại Lạc Dương, một người mù được chữa lành đã đứng lên làm chứng giữa hội chúng rằng: “Khi các ông nhắm mắt cầu nguyện thì tôi được mở mắt và thấy lại được ánh sáng!”. Một người ngoại quốc nói rằng: “Đó là hồng ân của Thiên Chúa chứ không phải công lao của ông Tống!”. Tống Thượng Tiết bèn đồng thanh nói lớn: “A-men!”
Sau đó Tống Thượng Tiết đến Nam Quang Đào. Hơn 1.200 thính giả đã chờ sẵn tại đại lễ đường Bách Gia Thôn, gồm các đại biểu của các vùng chung quanh cũng đến tham dự. Những người bệnh để chờ được chữa lành lại càng đông hơn nữa. Một Mục sư ngoại quốc đang phục vụ Chúa tại đây đã gả con gái yêu quí của mình cho một người đầu bếp Trung Hoa. Gia đình này đã đến nghe Tống Thượng Tiết và mời ông về nhà dùng cơm. Họ tỏ ra là những Cơ-đốc nhân nhu mì, khiêm nhường, hòa nhã và thánh khiết.
Khi đến Thái Nguyên, một đại diện của Hội Thánh ra ga xe lửa đón Tống Thượng Tiết, trên đường người này cứ luôn miệng ngợi ca Tống Thượng Tiết. Ông liền nghiêm chỉnh khiển trách người này: “Tôi đến đây mục đích là để làm vinh hiển danh Chúa, bây giờ tôi chưa nói một lời nào về Chúa mà ông đã tôn vinh tôi rồi, như vậy có ý nghĩa gì?”. Người ấy bèn ngưng những lời ngợi ca khách sáo.
Tống Thượng Tiết tá túc trong nhà một bác sĩ họ Phan. Những buổi truyền giảng được tổ chức trong một bãi đậu xe rất lớn và những chiếc lều được tạm thời dựng lên để che mưa nắng. Các quận huyện trong tỉnh Sơn Tây hầu như đều có cử đại diện đến tham dự. Các giáo sĩ Tây phương cũng khiêm nhường đến nhờ Tống Thượng Tiết cầu thay. Họ hòa mình để giảng Phúc âm cho người bản xứ, họ đã sinh hoạt và phục sức giống như người Trung Hoa... Một người câm từ miền xa muốn đến dự Đại hội nhưng đã bị trễ nên rất buồn và kêu khóc thảm thiết nên Mục sư sở tại đã khẩn thiết xin Tống Thượng Tiết cầu thay cho người đáng thương này. Tống Thượng Tiết nói cùng vị Mục sư đó rằng: “Chúa đã dùng tôi chẳng lẽ lại không dùng ông. Tại sao chính ông không cầu thay cho người câm này?”. Vị Mục sư này chẳng đặng đừng, phải cầu nguyện cho người này. Quả nhiên Chúa đã xót thương và chữa cho người câm có đức tin kia nói được. Anh ta đã mở miệng ca ngợi Thượng Đế. Tống Thượng Tiết nói cùng vị Mục sư ấy rằng: “Mục sư ơi, há phải tất cả những người đầy tớ trung thành của Chúa đều có thể tỏ ra quyền năng của Chúa sao? Từ nay không nên ỷ lại vào con người họ Tống này. Hãy sử dụng quyền năng Chúa ban đồng đều cho hết thảy những ai tin nhận Ngài!”. Giăng 1:12, Ma-thi-ơ 28.
Vừa về đến Thượng Hải, Tống Thượng Tiết đã phải chuẩn bị đi Phước Châu để hướng dẫn Đại hội Thánh Kinh của Đoàn Truyền Giáo trong khu vực Hoa Nam. Trước đó, những Hội Thánh tại kinh đô Bắc Kinh đã mời ông hướng dẫn Đại hội Thánh Kinh toàn quốc lần thứ III. Nhưng Chúa Thánh Linh đã ngăn trở và cho biết là sẽ gặp nhiều khó khăn và ngăn trở. Do đó, ông đã từ chối Bắc Kinh mà nhận lời mời vùng Hoa Nam, hướng dẫn Đại hội 10 ngày vào thượng tuần tháng 7. Ban tổ chức xin 1 tháng, nhưng ông chỉ nhận lời nửa tháng thôi. Phần lớn trong ban tổ chức không tán thành cho ông còn thái độ quan liêu, nhưng ông nhẹ nhàng từ chối, lấy cớ là sau này có dịp tiện khác sẽ đến... Ông không cần tranh luận với họ làm gì.
Khi đến Thượng Hải thì khói lửa chiến tranh đã phủ kín Bắc Kinh, chẳng bao lâu thì biến cố 7 tháng 7 xảy ra. Chỉ thị của Chúa đã được người ta thấy rõ. Tại Thượng Hải rất nhiều tin đồn đãi về chiến tranh và dân chúng tại Phúc Kiến cũng rất hoang mang. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng Đại hội cầu nguyện chắc cũng không thành. Lúc ấy ông nhận được thư mời của tỉnh Phước Châu, trong thư cũng cho biết là đã chuẩn bị sẵn sàng. Ban chấp hành Hội Thánh Giám lý cũng đã cử 300 truyền đạo đến tham dự Đại hội. Không những khu vực Hoa Nam mà cả Hoa Đông, Hoa Trung và cả 9 tỉnh quanh vùng cũng đã ghi danh tham dự, tổng số lên đến hơn 1.500 người. Đại hội đã dự trù và chuẩn bị chu đáo như vậy, cho dù tình hình chiến cuộc có sôi động đến đâu, Tống Thượng Tiết cũng chỉ biết bằng đức tin đến đó với Chúa mà thôi.
CHƯƠNG 45
LAO KHỔ TRONG KHÓI LỬA CHIẾN TRANH
(HẠ BÁN NIÊN 1937 – THƯỢNG BÁN NIÊN 1938)
I. GIANG TÔ VÀ TRIẾT GIANG
Đại hội Thánh Kinh của Đoàn Truyền Giáo Cơ-đốc vùng Hoa Nam khai mạc vào ngày 24-7-1937 tại Phước Châu như đã dự định. Tuy tình hình chiến cuộc không được yên tĩnh nhưng các đại biểu đều đến đầy đủ. Đại diện các Hội Thánh phía Bắc Phúc Kiến hầu như không thiếu một ai, tổng số lên đến 1.600. Ngày khai mạc Đại hội, các tờ báo vốn có thái độ công kích với Đại hội này, nay vì tình hình căng thẳng nên họ cũng không lòng dạ nào để công kích. Đại hội này đặt trọng tâm vào tiến trình tâm linh trong cuộc sống và trong công việc làm, trang bị cho các hội viên đến dự Đại hội có tâm tình nhiệt thành và một năng lực về mặt tri thức. Ngày 9-8, Đại hội bế giảng có 1.002 người được cấp chứng chỉ.
Ngày 10-8, Tống Thượng Tiết cùng các đại diện Giang Tô, Triết Giang lên tàu lên hướng Bắc, đến Thượng Hải vào chiều ngày 12.
Đêm 13-8 chiến tranh bộc phát mạnh. Nếu trễ 1 ngày thì không sao lên bờ được, thế mới biết sự hướng dẫn của Chúa thật kỳ diệu và chính xác.
Như kế hoạch đã định, ngày 20-8 Tống Thượng Tiết lên đường đến thành phố Ôn Châu, nhưng giao thông bị gián đoạn, cả một vấn đề nan giải. Nhưng Chúa đã ra lệnh nên phải vâng phục mà cứ đi như đã định. Ông đã nắm lấy lời hứa của Chúa và tuân theo ý chỉ của Ngài lên đường vào ngày 18-8 tức là sau biến cố của chiến cuộc đúng 5 ngày. Sáng sớm hôm sau đến ga xe lửa ở miền Nam, đoàn dân di tản cả hàng vạn người đang chen chúc nhau trên sân ga, không một chỗ chen chân. Ông xin phép người trưởng ga cho ông được ngồi trên trần toa xe nhưng không được. Một người chị em tín hữu họ Thái hỏi tin tức về chuyến tàu để Tống Thượng Tiết đi cho kịp chuyến truyền giáo, người chị em này đã bị trưởng ga mắng nhiếc: “Thời buổi này mà còn truyền đạo nỗi gì!”. Tống Thượng Tiết vẫn thầm cầu nguyện. Sau đó ông được phép ngồi trên nóc toa xe chở than củi là một xe không có trần cũng không có chỗ ngồi. Nhưng cũng còn hơn là không lên xe được! Mãi hơn 2 giờ sau xe lửa mới chuyển bánh. Máy bay cơ của quân đội Nhật bay lượn ầm ầm trên không và lúc nào như cũng sẵn sàng oanh tạc. Sau khi đã cầu nguyện vào giao thác cho Chúa thì ông không còn lo sợ cho mạng sống của mình nữa. Một lòng một dạ tin cậy và vâng lời. Trên đường đi nhiều lần cũng đã phải xuống tàu để tránh bom đạn. Nhiều tiếng nổ chuyển rung nhưng chuyến xe này không bị một tai nạn nào. Đến thành phố Tử Trang, tàu được nối thêm nhiều toa nữa rồi tiếp tục băng qua Tùng Giang và đến Gia Hưng. Tàu vừa qua khỏi 1 chiếc cầu thì chiếc cầu ấy đã bị oanh tạc gãy oằn xuống sông. Đoàn tàu tiếp tục dưới trời nắng rất day gắt, phần da tiếp xúc với ánh nắng của ông đã bắt đầu ửng đỏ, dần ngả qua màu nâu sạm rồi cháy nám… Đêm hôm ấy đến Hàng Châu, được Mục sư Phạm Quang Vinh mời về nhà nghỉ ngơi, Tống Thượng Tiết đã tắm với 3 thùng nước lớn mà như cũng chưa muốn sạch… Đêm hôm ấy tiếng còi báo động máy bay đến oanh tạc nhiều lần nhưng vì quá mệt mỏi nên Tống Thượng Tiết đã ngủ một giấc ngon lành đến sáng… Hôm sau có người hướng dẫn ông đến sông Tiền Đường, hành khách chờ đợi nơi bến sông đông như kiến cỏ. Trước tình huống này, Tống Thượng Tiết quyết định thuê ghe nhỏ đi một đỗi đường thủy. Cũng may là được một người chị em trong Chúa giúp đỡ nên đã vượt hết khúc sông để đến được thành phố Bá Quang, nhưng các quán trọ đều không còn một chỗ trống, nên Tống Thượng Tiết đã ngã lưng tạm ngủ ở một góc tối của sân ga. Xe lửa đến, hành khách chen lấn, tranh giành nhau bước lên tàu. Ông đứng giữa đám đông chật cứng như nêm, không nhúc nhích gì được, chỉ biết cứ dể đám đông đẩy đi. Cuối cùng ông cũng lên tàu. Dân chúng thỉnh thoảng quăng thức ăn lên tàu, người tị nạn giành giựt nhau, ông chẳng tài nào chụp được môt tí gì. Dù nếu có chăng nữa thì đám đông cũng không cho ông đưa lên miệng mà ăn được. Thế là ông đành phải nhịn đói để 11 giờ sáng hôm sau đến thành phố Linh Ba.
Tống Thượng Tiết định đến Hội Thánh Bê-tên để ở tạm ít hôm, nhưng lòng ông vẫn hướng về Ôn Châu. Cả đường thủy lẫn đường bộ đều không có một phương tiện nào có thể di chuyển được, thêm nữa dọc dường cướp bóc rất nhiều. Nhưng Ôn Châu vẫn là mục tiêu đầu tiên trong vòng truyền giáo này, nên buộc lòng phải có 2 người cùng tháp tùng với Tống Thượng Tiết đến thành phố Bạc Mau, đáp xe đến Thiên Đài, rồi di chuyển dần đến Ninh Hải. Nơi đây có một thiếu niên đưa Tống Thượng Tiết đến gặp một Mục sư thuộc hệ phái Episcopal, vị này vốn đã từng gặp và nghe Tống Thượng Tiết giảng nên bây giờ họ gặp nhau như gặp bạn cố tri. Hôm ấy là Chúa Nhật nên buổi tối Tống Thượng Tiết giảng cho Hội Thánh một bài với đề tài “Lòng tin của người đàn bà Ca-na”. Đêm hôm đó, Tống Thượng Tiết nghỉ tại nhà một tín hữu, chính quyền địa phương nghi ngờ là một gián điệp nên đã cho người theo dõi. Mục sư sở tại đã đánh điện cho tín hữu tại Ôn Châu biết hành trình của Tống Thượng Tiết. Hội Thánh đã phái 4 người đi xe đạp tới đón ông, nhưng được nửa đường, có 2 người tự ý quay về còn 2 người tới nơi nhưng tìm không ra địa chỉ. Đợi mãi không thấy nên ông phải đi bộ, có khi dùng cáng hay xe kéo. Mãi đến ngày 25 mới đến được Ôn Châu. Ngay chiều hôm ấy đã bắt đầu ngay một buổi truyền giảng, thính giả gần cả 2.000 người. Ông thấy rằng những vất vả của cuộc hành trình chẳng có gì là luống công. Ông lại càng thấy được an ủi khi những người bệnh tật đến xin đặt tay cầu nguyện, phần lớn đã được Chúa chữa lành.
Sau Ôn Châu là thành phố Ôn Lĩnh. Hơn 4.000 thính giả đã đợi chờ Tống Thượng Tiết và ban tổ chức Đại hội cũng đã chuẩn bị xong chỗ ăn ở cho hơn 600 đại biểu các nơi đến tham dự. Nhưng vì tình hình chiến sự quá căng thẳng nên một số sợ máy bay quân đội Nhật oanh kích không dám đến, một số khác, thuộc phái Linh Ân tự thấy mình đã quá thuộc linh nên không thèm đến dự. Số người thật sự dự nhóm Đại hội còn lại khoảng vài trăm người. Trong đó chỉ có trên 10 người truyền đạo, còn đa số thính giả là các bà cụ thất học và xưa nay chưa từng được giảng dạy về chân lý Phúc âm. Nên họ chỉ bàn về những cơn dị mộng cùng nhắc lại những dị mộng mà họ đã có, còn vể chân lý Thánh Kinh thì họ hoàn toàn chưa hề biết đến. Có một số trong họ, khi Tống Thượng Tiết vừa mới đặt tay cầu nguyện thì họ đã ngã vật ra đất, tưởng như thể là được ơn của Chúa Thánh Linh!
... Đường về miền Bắc hình như đã bị cắt đứt, nhưng nếu có đi qua đươc thì cũng rất nguy hiểm. Nhiều tín hữu đã khuyên ngăn Tống Thượng Tiết không nên đi Sơn Đông, cùng lúc đó ông được thư mời của những tỉnh miền Nam như Bình Dương, Thụy An, Nam Xương, Phước Kiến. Dưới con mắt của loài người thì ai cũng thấy đi xuống miền Nam là hợp lý. Nhưng ông đã cầu nguyện xin Chúa chỉ thị rõ ràng: “Chúa ôi, những công việc ở miền Nam dường như đã đủ rồi, xin Chúa cho con gánh vác gánh nặng tại đây”. Ngày bế mạc Đại hội tại Ôn Lĩnh, Tống Thượng Tiết lại càng cầu nguyện khẩn thiết hơn. Đêm hôm ấy, được một giấc mơ, có một người đến nói với ông rằng: “Mời ông đến hầu việc Chúa tại phương Bắc của chúng tôi, xin đừng sợ hãi, ông cứ an tâm, đường đi sẽ bình an vô sự. Có vài chục triệu người đang mong đợi ông”. Tống Thượng Tiết thức giấc, cảm ơn Chúa và thuận phục theo ý của Ngài. Ông tạm thời hủy bỏ những chuyến đi đến Dịch Huyện, Tế Nam và Yên Đài để đi về miền Bắc bằng đức tin. Con đường lên miền Bắc phải ngang qua Hàng Châu, nghĩa là phải qua các miền Trạch Quốc, Lộ Kiều và Huỳnh Nham. Những nơi này chưa có những trục lộ giao thông hiện đại nên việc di chuyển phải dùng thuyền chèo, đi cáng hoặc đi bộ. Chưa kịp lên đường thì có một vị Mục sư ngoại quốc của Hội Nội Địa, quản lý toàn bộ các Hội Thánh ở vùng Ôn Lĩnh vừa từ Yên Đài đến. Tống Thượng Tiết khấp khởi mừng thầm như người trong sa mạc nghe được tiếng chân đi. Vị Mục sư này cũng đang ưu tư cho cuộc sống tâm linh của những người thuộc phái Linh Ân, đồng quan điểm với Tống Thượng Tiết. Cuộc hành trình phải ghé thị trấn Tâm Xương, nhân cơ hội, Tống Thượng Tiết dùng I Cô-rinh-tô 13 giảng cho hội chúng để họ hiểu rõ hơn về tình yêu thương. Tại đây có Trương Linh và Dương Thành Huê vốn là bông trái của công lao của Tống Thượng Tiết. Lúc đến thành phố Hàng Châu, có một tín hữu đến báo cho ông biết có một chuyến đò dọc có thể đi thẳng đến Sơn Đông. Nghe tin mừng còn hơn bắt được của, ông vội vã đặt mua vé giữ chỗ, đồng thời đánh điện báo cho các Hội Thánh tại Sơn Đông. Khi đi ngang qua Nam Kinh, ông gặp Mục sư Lý Ký Ngạ, ông ta cho biết tình hình chiến sự ở đó càng ngày càng căng thẳng. Rất nhiều người đã bỏ quê hương di tản đi nơi khác
II. SƠN ĐÔNG
... Đêm hôm ấy, Tống Thượng Tiết rời Nam Kinh, dùng phà đến Phổ Khẩu, dùng xe hơi băng ngang qua Lâm Thành và đến Dịch Huyện. So với chương trình đã định thì chỉ trễ mất 1 ngày. Vì thì giờ qua gấp rút không thông báo kịp thời, nên số người đến dự chỉ vào khoảng 400, nhưng những người này thuộc thành phần “thuần giáo”. Những người lãnh đạo các Hội Thánh tham dự khoảng gần 80. Những ngày sau, người đến dự ngày càng đông... Chiến dịch kéo dài 1 tuần lễ, số người được cứu lên đến 8.000.
Sau đó qua thành phố Tế Nam. Mặc dầu cảnh chinh chiến đã lan khắp nơi, việc di chuyển vô cùng khó khăn, nhưng vẫn tổ chức những buổi truyền giảng. Khi mới đến Tế Nam, tiếng bom nổ liên hồi quanh thành phố, những gia đình giàu có đều di tản đến những miền yên tĩnh hơn. Những người nghèo còn ở lại và họ đến nhóm lại để nương cậy vào Chúa. Một hôm, Tống Thượng Tiết đang giảng về thiên đàng và địa ngục, bỗng nhiên nghe tiếng còi báo động máy bay oanh tạc sắp đến. Lòng người dao động, trật tự, hỗn loạn. Tống Thượng Tiết khuyên thính giả nên bình tĩnh, vì nếu được bom thả trúng vào thì coi như hết thảy chúng ta đều lên thẳng thiên đàng. Còn nếu ngày giờ chưa đến thì chúng ta sẽ bình an, không một ai mất một sợi tóc. Lúc ấy hội chúng mới yên tĩnh trở lại. Về sau mới biết ban tổ chức đã nghe tin đồn thất thiệt nên đã hụ còi báo động nhầm!! Những buổi truyền giảng kế tiếp, nhiều sinh viên của trường đại học Tế Hồ cũng đến tham dự và một số sinh viên đã được Chúa cứu. Ít lâu sau, đại học Tế Hồ dời về Tứ Xuyên.
Máy bay Nhật thường bay ngang trên không phận Yên Đài, nhưng thành phố này chưa bao giờ bị oanh tạc nên lòng dân tương đối bình an. Sau giờ nhóm lại, Tống Thượng Tiết muốn lấy vé về Khai Phong nhưng không sao mua được vé. Ông bèn cầu nguyện cùng Chúa và xin giao mọi sự cho Ngài quyết định. Bỗng nhiên có một người đến biếu cho Tống Thượng Tiết một vé xe lửa và nói rằng đêm qua đã chờ mua dùm ông. Tống Thượng Tiết cầm chiếc vé mà lòng được khích lệ rất nhiều.
Xe lửa đến Can Sơn, nhưng được tin thành phố Thái An ở phía trước đang bị oanh tạc nên đã dừng lại, không dám đi tới. Về sau có tin cho hay là chuyến xe tốc hành phía trước đã bị máy bay oanh kích, thiệt hại rất nặng nề, còn chuyến xe của Tống Thượng Tiết thì bình an, cứ tiếp tục chạy ngang qua Từ Châu, nửa đêm thì đến Khai Phong. Trong cảnh khói lửa như vậy không ngờ có hơn ngàn người đến tham dự buổi truyền giảng. Trong đó có những người ngày trước đã từng chống đối Tống Thượng Tiết, lại cũng có cả thành phần chính quyền đến tham dự. Địa điểm truyền giảng là ngoại thành Tống Môn Quan, sau 7 giờ tối là giới nghiêm, không ai được ra vào. Tống Thượng Tiết đã xin phép chính quyền và họ đã cho phép, với điều kiện là Mục sư sở tại phải hướng dẫn dân chúng ra vào cổng thành.
III. CÁC TỈNH THIỂM TÂY, HÀ NAM
Tháng 11 năm 1931, Tống Thượng Tiết đến thành phố Tây An. Hội Thánh tại đây nhiều năm đã khao khát Lời Chúa, nên rất trông mong Tống Thượng Tiết đến thăm, riêng Tống Thượng Tiết cũng đã cầu nguyện cho thành phố này trong hơn 2 năm nay. Bây giờ Chúa mới cho phép ông tới. Quả nhiên khi đến nơi thấy ngay quyền năng của Đức Chúa Trời. Thời tiết tại đây từ tháng 7 trở đi trời bắt đầu mưa dầm, khó có một ngày tạnh… Nhưng khi ông đến nơi, trước Đại hội 1 ngày thì trời bỗng tạnh ráo, mây đen tan biến hết. Điều này khiến cho lòng những người mộ đạo trong các làng mạc cũng như các thị trấn phụ cận đều có thể đến tham dự. Đại hội kéo dài 8 ngày, không một ngày nào trời mưa. Thính giả từ các vùng phụ cận có đến 500. Các học sinh của trường cô nhi có đến hàng ngàn cộng thêm dân địa phương, các buổi nhóm lại là cả một biển người. Học sinh được chính phủ sai đi đến các làng mạc tuyên truyền cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm cũng có dịp được nghe Phúc âm. Chúa đã cứu nhiều người trong chiến dịch này, trong số đó có một vị Huyện trưởng tiền nhiệm, một ông hiệu trưởng đại học Nông Lâm Súc… Một ngày sau khi Đại hội chấm dứt trời vẫn còn tạnh ráo, những người từ nơi xa đến dự có thể ra về dễ dàng. Một ngày sau trời lại sa mưa.
Hội Nội Địa tại tỉnh Sơn Tây cũng mời Tống Thượng Tiết đến thành phố Vận Thành… Hơn nữa năm nay ông cũng đã cầu nguyện cho thành phố này. Từ Tây An đến Vận Thành phải dùng đò ngang vượt Hoàng Hà, mặt sông tuy chỉ rộng khoảng 5 dặm nhưng nước sông chảy rất xiết, băng qua sông là cả một vấn đề! Bến đò Phong Lăng mới bị trưng dụng để điều động đại binh. Các chuyến xe lửa cũng bị trưng dụng để vận chuyển quân đội. Từ bến đò Phong Lăng đến Vận Thành còn khoảng vài trăm dặm đường, nhưng chân Tống Thượng Tiết bị đau không thể đi được, nên ông đã ngước mặt lên trời mà khẩn xin Chúa ban ơn thương xót… Một vị trưởng lão họ Tạ thấy vậy, liền đến xin gặp người trưởng trạm xin phép ông này chừa một chỗ trên xe lửa. Người trưởng trạm hỏi: “Vị Tiến sĩ Tống ấy là ai? Có phải con người đã đi khắp nơi giảng phấn hưng và truyền giáo Phúc âm? Khi tôi đang phục vụ tại Các Lâm đã được nghe danh ông giảng, tôi đã cố tâm tình gặp con người này”… Thế rồi chuyến xe lửa dành riêng cho quân đội đó đã phá lệ chở thêm một người dân sự… Và chuyến “quân xa” ấy đã đưa Tống Thượng Tiết đến Vận Thành bình an.
Tin chiến sự đưa về, tình hình ngày càng nóng bỏng, nhưng những thính giả đến dự nghe truyền giảng vẫn không kém đông đúc. Tống Thượng Tiết đã cầu nguyện cho hơn 500 người và thành lập hơn 70 tổ truyền bá Phúc âm. Hôm sau là ngày bế giảng của trường đại học và cũng là ngày đóng cửa vô thời hạn trường đại học, vì tình hình chiến sự vô cùng căng thẳng.
Theo dự định, Tống Thượng Tiết phải tiếp tục lên miền Bắc để đến phủ Thuận Đức, nhưng Thuận Đức đã bị thất thủ. Ông chỉ còn một đường quay về đi miền Nam, xuống thành phố Hoài Viễn thuộc tỉnh An Huy. Nhưng lúc ấy tất cả phương tiện giao thông kể cả những chiếc phà đưa khách sang sông cũng bị trưng dụng cho quân đội sử dụng. Thường dân có khi phải đợi đến 3,4 ngày vẫn chưa có phương tiện để sang sông. Tống Thượng Tiết lại thưa cùng Chúa: “Chúa ôi, con cũng là lính của Thiên Quốc chiến đấu cho thế giới tâm linh. Con đang ở trong tình trạng khẩn cấp, con không thể đợi chờ được nữa, xin Chúa cho con sang sông. Con tình nguyện vì Ngài mà chiến đấu, xin Chúa làm vị Nguyên soái của con!”. Thật lạ lùng, một người không quen biết bỗng nhiên bồng Tống Thượng Tiết lên toa xe. Ông bụng bảo dạ: “Chắc người này tưởng mình là một thương bịnh binh?... Nhưng hành lý vẫn còn để tại nhà của Mục sư Dương thì sao?”. Tống Thượng Tiết lại cũng nhờ Giê-hô-va vạn quân gọi điện cho Mục sư Dương. Quả nhiên những hành lý của Tống Thượng Tiết đã có sẵn trên tàu. Câu chuyện này không sao giải thích được!
Sang được Hoàng Hà, còn phải băng qua đường núi để lên Đồng Quang. Núi non thật hiểm trở, thêm vào đường sá sau cơn mưa lại càng trơn trợt, Tống Thượng Tiết nhìn lên thấy non cao vòi vọi, nhìn xuống dòng Hoàng Hà cuồn cuộn mênh mông, lòng như nao nao sờn ngã. Ông cầu nguyện cùng Chúa: “Chúa ôi, chân con đau đớn như thế này, đi trên những con đường bằng phẳng còn chưa chịu đựng nổi, làm sao con có thể vượt qua con đường núi non hiểm trở này? Nếu con có chết nơi đây, chắc cũng không ai biết tăm tích, xin Ngài thêm sức và ban cho con thêm can đảm. Xin Chúa cũng sai phái 1 người chân thành đến giúp đỡ con di chuyển chiếc va-li nặng nề này. Ngợi khen Chúa... Hãy xin sẽ được...” Quả nhiên có một người đã đến giúp xách dùm Tống Thượng Tiết chiếc va-li nặng, sức lực của ông cũng tăng lên bội phần, chân đã bớt đau nhiều và ông đã thoăn thoắt leo đường núi để đến Đồng Quan. (Có một lần tại bến xe Thượng Hải cũng có một người đến vác dùm va-li và đã vác đi luôn, nên lần này ông đã phải xin Chúa phái đến cho một người thiệt thà!)
Từ Trịnh Châu đến thành phố Hoái Viễn, phải qua đêm tại ga xe lửa Từ Châu. Tống Thượng Tiết biết Mục sư sở tại Hoài Viễn rất bận rộn với công việc Hội Thánh, trong nhà lại không có người giúp đỡ, nên không dám làm phiền, phải tá túc tại tư gia của một giáo sĩ Tây phương... Cũng vì việc này mà nhiều người đã xì xào, cho là Tống Thượng Tiết tự cao, khinh dể người đồng công và đồng hương Trung Hoa của mình. Vị Mục sư ở Mông Thành cũng đến dự Đại hội, nghr thấy vậy cũng ngại ngùng không dám mời Tống Thượng Tiết đến Mông Thành, nhưng mọi mưu kế của ma quỉ đều bị phá vỡ. Cuối cùng rồi Tống Thượng Tiết cũng đến Mông Thành. Từ Hoài Viễn đến Mông Thành phải dùng thuyền nhưng chèo ngược gió, thuyền đi rất chậm nên phải bỏ thuyền lên bộ để đi xe, xe lại tắt máy! Bụng đói chân đau mà phải lê bước trên 20 dặm để đến thành phố Mông Thành. Mục sư quản nhiệm Hội Thánh Mông Thành lấy cớ là nam tín hữu bận việc đắp xa lộ nên những người đến dự toàn là những phụ nữ và trẻ con. Số người đến nghe rất ít, khoảng 7,8 chục người đến dự mà hơn 1/3 là những người tai điếc, mắt lòa và ưa ngủ gà ngủ gật; cỏn lại là hơn 10 đứa trẻ con đến để chơi đùa ồn ào; những người lãnh đạo Hội Thánh đến với thái độ thờ ơ, mỏi mệt, cùng một số người ốm yếu ho hen. Tuyết trời lạnh giá, Tống Thượng Tiết đứng trên bục giảng mà run cầm cập vì lạnh, không khí trong nhà thờ rất nặng nề, Tống Thượng Tiết vẫn truyền giảng hết mình, nhưng không thấy có hiệu quả gì. Tống Thượng Tiết cảm thấy là cần phải “vật lộn với Chúa”. Ông nói: “Chúa ôi, con chưa bao giờ đã thuận phục mà phải chịu cảnh như thế này, tại sao Ngài chưa ban phước và làm việc tại đây?”. Ngợi khen Chúa Thánh Linh, Ngài đã làm việc, trước hết trong lòng vài bà lão. Trong giấc mơ các cụ thấy một người mặc áo trắng đã vạch ra hết những tội ác và kêu gọi họ phải ăn năn, tin nhận Chúa Giê-su. Các cụ kể chuyện này cho những người khác, dần dần các tín hữu nghe được tin này bắt đầu tin và tìm đến, có một người tên là Vương Thuận bị câm lúc 17 tuổi, sau khi được Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện đã mở miệng làm chứng về Chúa. Cũng có một vị trưởng lão bị một mụn nhọt chữa trị lâu ngày rồi nhưng không khỏi, nhưng khi được cầu nguyện thì bắt đầu lành, lột da và hết ngứa. Tiếng đồn vang khắp nơi, người đến dự ngày càng đông...
Sau đó, Tống Thượng Tiết dùng xe kéo đến thành phố Túc Huyện. Máy bay địch cũng thường bay lượn trên không phận thành phố, những thương phế binh cũng hay đến quấy nhiễu. Ông vốn ốm yếu, nay lại bị mất ngủ nên đã rất nhọc mệt. Nhưng khi thấy có hơn 800 thính giả thì ông cũng quên hết những mệt nhọc. Có một nữ sinh tốt nghiệp trung học tại trường Tế Nam, chưa bao giờ được dịp nghe về Phúc âm, cô ta tản cư đến Túc Huyện và dạy học cho một trường của Hội Thánh, cư ngụ tạm trong gia đình một người bạn họ Lý. Cô Lý đã mời bạn đến dự nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng Phúc âm. Cô giáo trẻ này nghe Tống Thượng Tiết giảng ai cũng có tội, mà đã có tội là đáng chết, phải xuống địa ngục. Cô ta rất giận dữ nói với bạn rằng: “Tôi không đến nghe nữa, vì giảng đạo đâu phải là chửi mắng người ta? Hơn nữa tôi có làm gì nên tội mà ông ấy lại mắng chửi tôi? Thân mẫu tôi chưa bao giờ có ý định quản thúc tôi, tại sao cái ông họ Tống ấy lại chửi mắng và đòi quản thúc tôi?”. Cô Lý dùng lời nhỏ nhẹ khuyên giải bạn, ông đâu có quen biết bạn mà nhắm vào bạn mà mắng chửi! Nhưng cô ta vẫn khăng khăng: “Tất cả những lời ông ta nói đều nhắm vào tôi mà mắng, tôi đã cố gắng nghe đến ngày thứ 2 và tôi cũng đã quyết định không đến nghe nữa!”. Nhưng cô Lý vẫn cứ nhỏ nhẹ mời bạn đi nghe thêm nữa. Nghe đến nửa bài giảng thì cô giáo đó cũng nói với cô Lý: “O6ngta vẫn cứ nhắm vào tôi mà cáo trách, làm sao tôi còn có thể ngồi đây để tiếp tục nghe ông ta cáo trách mình?”. Nhưng cô Lý vẫn cứ cố nài cô ta nán ngồi lại nghe cho hết bài giảng. Trên đường về, cô giáo trẻ này đã hỏi cô Lý: “Người đi lên phía trước làm gì vậy?”. Cô Lý đã trình bày là những người đó đã xưng nhận tội lỗi của mình với Chúa và cầu nguyện. Cô giáo trẻ băn khoăn, những người ấy làm như vậy thì có ích lợi gì chăng? Để được sự bình an chăng? Cô ta không một chút tin tưởng, cho đó chỉ là 1 trò đùa. Nhưng đến ngày thứ ba, Đức Thánh Linh bắt đầu làm việc, cô cũng nhận biết mình là người có tội, cảm thấy rất khó chịu và đã nói với cô Lý rằng: “Tôi thấy có một cái gì không ổn, lòng dạ bối rối bất an”. Cô Lý khuyên nên lên phía trước cầu nguyện, nhưng cô ta vẫn cứng lòng và nói rằng: “Cho dẫu có chết tôi cũng không lên thử!”. Lòng lại càng bất an, bối rối hơn. Ánh sáng của Đức Thánh Linh đã chiếu rọi để cô có thể thấy rõ mọi tội lỗi ẩn tàng che dấu bấy lâu nay. Qua đến ngày thứ tư, cô lại càng thấy khó chịu hơn đến nỗi đói mà chẳng muốn ăn, đêm không sao ngủ được, một mình ngồi trong buồng than thở, khóc lóc ai oán... Những bạn bè của cô giục cô nên nhanh lên phía trước để xưng nhận tội lỗi với Chúa, xin Ngài thứ tha tội lỗi để nhận sự bình an. Nhưng cô vẫn một mực không tin: “Làm sao có thể dễ dàng như vậy, chỉ cầu nguyện là có được sự bình an! Tôi không tin và tôi sẽ không đi nghe giảng nữa! Khi trước chưa đi nghe giảng, lòng tôi vẫn được bình an, nay đến đây nghe giảng, ngược lại lòng lại đầy bối rối!”. Ngày thứ năm, cô không thể chịu đựng ở nhà một mình được nên phải theo bạn đến nhà thờ nghe giảng tiếp. Cuối cùng cô chịu vâng phục lên phía trước để cầu nguyện xưng tội và tiếp nhận Chúa Cứu Thế. Quả nhiên cô đã được giải phóng khỏi những ràng buộc nặng nề của tội lỗi và cô nhận được một nguồn an ủi khoái lạc vô cùng. Nét mặt cô đã được biến đổi từ sầu não ra vui tươi. Cô ta đã tâm sự cùng bạn mình: “Bây giờ tôi đã nếm được thế nào là mùi vị của sự tha thứ tội lỗi, tất cả những nặng nề chất chứa trong lòng đều được cất đi, thật là nhẹ nhàng, sung sướng, khoái lạc”. Về sau, cô đã đưa dắt song thân tin nhận Chúa Giê-su, riêng phần cô, cô cũng đã dâng hiến cuộc đời mình để hầu việc Chúa...
Cuối năm 1937, Nam Kinh thất thủ. Tống Thượng Tiết nhận được thư của người vợ hiền từ Thượng Hải cho biết là nhà tại cửa Tây đã bị kẻ cướp lấy tất cả đồ đạc quần áo, ngay cả sách vở và thơ từ của ông cũng không còn! Tống Thượng Tiết nghe tin ấy đã ghi lại cảm nghĩ của mình rằng: “Hai chục ngàn quyển sách tuy có quý nhưng cũng không đáng kể, duy chỉ hơn 50 bức thư mới là vật vô giá!”. Tống Thượng Tiết muốn về nhà ngay nhưng Chúa không cho phép và Ngài lại thôi thúc ông đến thành phố Phù Dương. Trải qua 3 ngày đường, biết bao nhiêu là gian khổ, nhọc nhằn... Sáng sớm tinh sương đã lên xe kéo, tối 8 giờ mới tới được Mông Thành. Còn những 180 dặm đường dài nhưng không mướn được xe hơi nên một lần nữa phải lên ngồi xe kéo. Nhưng mới được 30 dặm thì người phu xe đã than đau chân, cố gắng thêm được 10 dặm nữa thì xe lại hư, không tiến thêm được nữa. Lần đầu tiên ông phải đi xe “một bánh”. Chân xe có một cái giá bằng gỗ, một bên cho người ngồi, bên kia chở hành lý. Khách ngồi xe phải biết nương theo đà xe chạy: Phải cong mình, ngưỡng ra phía sau để giữ thăng bằng, người phu xe nắm một cái càng đẩy từ phía sau ra trước. Đi được vài dặm đường như thế, Tống Thượng Tiết hồi hộp theo với đà lắc lư của xe, trái tim của ông như cũng muốn nhảy ra ngoài! Tống Thượng Tiết lại thưa với Chúa rằng: “Chúa ôi, tại sao con càng ngày càng phải chịu thêm nhiều cảnh khổ?”. Chúa đáp lời: “Ta phải huấn luyện con đến độ thuận phục trọn vẹn, gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng không oán trách, không giận hờn, nhưng trong mọi sự phải biết cảm tạ Chúa!”.
Hội Thánh của thành phố Phù Huyện thuộc tỉnh An Huy là một Hội Thánh có nhiều tín hữu yêu mến Chúa, nên đã tự trị. Chiến dịch truyền giảng tổ chức trong 7 ngày, rất nhiều người đến tham dự. Những người bệnh được đặt tay cầu nguyện hầu hết đã được chữa lành. Chiến dịch kết thúc, Tống Thượng Tiết dùng đò theo sông Lư ở Châu Khẩu để đến Khứ Xương thuộc Hà Nam. Đường sông dài hơn 400 dặm, gió buốt tận xương tủy.
Đến Khứ Xương thì đêm đã quá khuya, không được ai tiếp đón. Đêm hôm ấy cũng là đêm Giáng Sinh năm 1937. Tống Thượng Tiết nghĩ đến cảnh ngộ những gã chăn chiên ngoài đồng. Mình cũng vậy, thức suốt đêm nay, chờ sáng hôm sau để đến thờ phượng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh. Số người đến tham dự lên đến 2.000. Tống Thượng Tiết đã giảng về Chúa Giáng Sinh, số người dâng đời mình cho Chúa thật đông. Trong khi Tống Thượng Tiết đang hầu việc Chúa tại thành phố Tín Dương thì thành phố kế cận, Hạp Phì thuộc An Huy đã thất thủ. Tống Thượng Tiết có ý định về Thượng Hải, nhưng Chúa chưa cho phép. Thành phố Chính Dương đã 3 lần mời Tống Thượng Tiết và đưa xe hơi đến đón nên ông đã nhận lời mời. Những giáo sĩ Tây phương của hệ phái Lutheran không chịu bỏ dân mà di tản cư chỗ khác đã khiến cho Tống Thượng Tiết thật khâm phục và kính mến. Trong chiến tại Chánh Dương, có 3 người đã làm cho Tống Thượng Tiết thật cảm động: Người thứ nhất là một em bé lên 10 mà đã vượt đoạn đường 100 dặm để đến nghe giảng Phúc âm. Có người hỏi em, tại sao em lại chịu khó đến nghe giảng Phúc âm như thế này? Cậu bé đã trả lời: “Cha con ở phương xa đã nghe Phúc âm mà tin nhận Chúa và đã trở nên một người rất tốt, nên con cũng muốn nghe giảng Phúc âm để cũng hưởng được ân phúc đó!”. Người thứ hai là một người đàn bà có chồng đi phương xa. Bà nhận được thư của chồng bảo rằng nơi nào có truyền giảng Phúc âm thì nên đến để nghe. Bà liền đánh điện gọi chồng về để cùng đi nghe giảng, chồng chưa về kịp, bà nóng lòng phải đi một mình cho kịp đến dự nghe truyền giảng. Cô đành phải dùng những đoạn đường nhỏ, phải trải qua ngày. Nhưng nửa đường gặp bọn cướp ở phía trước. Cô phải tháo lui, nhưng đến ngày thứ năm, cô nghĩ rằng nếu không cố gắng đến nghe được lần này thì sẽ không bao giờ còn có cơ hội nữa. Cô đã mạo hiểm để vượt đoạn đường còn lại gần 100 dặm. Lần này cô gặp một kẻ say rượu bắn vào chân cô 2 viên đạn. Sau khi tỉnh rượu, anh ta thấy hối hận, nên đã hỏi cô muốn đi đâu. Sau khi biết được mục đích của cô, anh ta bèn nhờ người kiệu cô đến Chánh Dương nơi Tống Thượng Tiết đang truyền giảng Phúc âm. Ông hỏi cô rằng: “Chân cô còn đau nhức lắm không?”. Cô trả lời: “Chỉ cần nghe được chân lý thì có chết cũng cam lòng”. Cô nằm trên ghế bố để nghe truyền giảng Phúc âm, có nhiều người nghe lời chứng từ miệng cô mà được năng lực...
Từ thành phố Chánh Dương, Tống Thượng Tiết đã dùng xe hơi băng ngang Hán Khẩu, di chuyển dần đến Hồng Kông. Trên lộ trình này, đến đâu thuận tiện là ông cũng giảng để củng cố niềm tin cho tân tín hữu. Từ Hồng Kông, ông lên tàu về Thượng Hải, về đến nhà nhằm ngày 1 tháng Giêng năm 1938 cũng là ngày mồng một Tết Nguyên Đán năm Bính Dần.
IV. TỈNH PHƯỚC KIẾN
Đoàn Truyền Giáo Cơ-đốc Thượng Hải mời Tống Thượng Tiết hướng dẫn cho 1 tuần lễ dưỡng linh cho các đoàn viên từ 20 đến 27 tháng 2. Trong “trại” này, Tống Thượng Tiết đã giảng 8 bài và những bài giảng đó về sau đã được in thành những sách nhỏ.
Sau đó ông đã trở về Phước Kiến. Tại thành phố Trường Lạc thuộc Phước Kiến, có một nữ tín hữu lúc còn du học ở nước ngoài đã được ơn cứu rỗi. Khi trở về Trường Lạc cô đã cố gắng khuyên nhủ những người thuộc Tân Phái nên đầu phục Chúa Cứu Thế Giê-su, cô cũng tổ chức một tổ truyền bá Phúc âm, giương cao ngọn cờ thập tự. Năm 1916, cô ta đến Hạ Môn dự lớp Thánh Kinh, khi trở về Hội Thánh nhà, cô đã tổ chức thêm được 5 tổ truyền bá Phúc âm khác cho các thôn xóm chung quanh và có kết quả rất tốt nên nhà thờ không còn chỗ cho tín hữu ngồi…
Tống Thượng Tiết đến Rường Lạc để giảng cho Đại hội truyền giảng và phục hưng trong 7 ngày, những buổi nhóm lại đều do tín hữu đảm trách. Trong thời gian này, chiến hạm Nhật đã đến đã đến Mã Giang, phi trường bị oanh tạc nên lòng người rất lo âu. Đêm hôm ấy cả thành phố phải diễn tập phòng không nên không ai được thắp đèn, Hội Thánh phải tổ chức giảng trong đêm tối. Ma quỷ cũng đã từng hồi từng lúc dùng nhiều cách quấy phá. Một đêm khác vì các học sinh phải lo đi tiễn đưa một nhân vật cao cấp của chính quyền nên không đến dự nghe truyền giảng được. Đảng bộ Quốc Dân Đảng tại Trường Lạc cũng có ý cấm đoán những buổi truyền giảng của Tống Thượng Tiết. Nhưng có một bà họ Hà yêu cầu chồng can thiệp nên về sau lệnh cấm đã được thu hồi.
Từ Trường Lạc, Tống Thượng Tiết xin giấy thông hành đến La Nguyên. Đại hội tại La Nguyên thực hiện được cũng do một chị em tín hữu đứng ra đảm trách. Huyện trưởng La Nguyên phái người đến mời ông đến cơ quan huyện để nhận chỉ thị. Chỉ đạo viên Đảng Bộ cũng đến thôi thúc ông, nhưng ông cáo lỗi không thể đến gặp mặt được. Về phía Đảng Bộ trên phương diện chính trị, họ yêu cầu ông trong những bài giảng phải kêu gọi lòng yêu nước cũng như tinh thần phục vụ Tổ Quốc. Tống Thượng Tiết trả lời rằng: “Nếu mọi tội nhân đều hối cãi ăn năn và tin nhận Chúa, tuân theo mọi phép tắc của Nước Trời tất nhiên sẽ trở thành những người yêu nước và yêu dân – Vì ‘Đại Đạo chi hành giả thiên hạ vi công’ (hành đạo và truyền đạo là căn nguyên của cứu quốc và ái quốc) – Xin mời quý ông cũng hãy đến nghe… Họ đã đến nghe được vài chục người, trong đó có một số người giữ những chức vụ khá quan trọng , cuối cùng họ cũng đã ăn năn, tin nhận Chúa.
… Trước khi ông đến Ninh Đức thì vị Mục sư sở tại đã tuyên bố rằng Tống Thượng Tiết có thể làm phép lạ và đã triệu tập được hơn 600 bệnh nhân. Tiếng đồn thấu đến tai Đảng bộ Quốc dân Đảng. Chỉ đạo viên của Đảng bộ là một tín đồ Công Giáo nên đã báo cáo trái ngược sự thật với tiểu đoàn trưởng của mình: “Ông họ Tống đó là một người dở điên dở khùng, đã từng bị Đảng bộ ở Hạ Môn trục xuất”. Vào thời chiến, quân đội có quyền can thiệp vào những sinh hoạt dân chính nên vị tiểu đoàn trưởng này đã ra lệnh cấm chỉ những buổi truyền giảng của Tống Thượng Tiết. Dưới sự hướng dẫn của Chúa, Ngài đã đưa ông đến thành phố Liên Giang, vì giáo đường gần chợ nên quá ồn ào, không tiện việc nhóm lại truyền giảng nên đã dời ra ngoại ô, nhóm lại tại một bệnh viện. Nhưng địa điểm này lại quá hẻo lánh, sợ bọn người thổ phỉ đến gây rối loạn. Chúa đã dùng vài chục sĩ quan mến mộ đạo và tin đạo của tiểu đoàn chính huấn đến dự Đại hội. Do đó hội chúng an tâm, không còn ai sợ những chuyện không hay có thể xảy ra, trật tự an ninh rất đảm bảo. Có một phụ nữ chưa biết Chúa, ngày nào cũng ẵm đứa con đã lên 6 nhưng chưa biết đi. Bà đến nghe truyền giảng Phúc âm đều đặn và ngày nào bà cũng ôm con lên phía trước để cầu nguyện ăn năn, xưng tội. Tống Thượng Tiết đã nói với bà chỉ cần ăn năn xưng tội một lần là đủ rồi, nhưng đến ngày thứ sáu, bà cũng lại ôm con đến. Tống Thượng Tiết đã cầu xin cùng Chúa rằng: “Chúa ôi, ngày xưa Chúa đã thương xót người đàn bà Ca-na-an, bây giờ xin Ngài cũng ban phước như vậy cho người đàn bà này”. Sau khi Tống Thượng Tiết đã đặt tay cầu nguyện nhưng đứa bé vẫn mềm nhũn. Bà ta cứ nài xin ông tiếp tục cầu nguyện thêm. Tống Thượng Tiết đã tỏ cùng bà rằng: “Tuy bà đã có lòng tin nhưng chưa biết nắm chắc lấy lời hứa của Chúa, bây giờ xin bà cứ ngợi ca Chúa không cần phải cầu xin nữa”. Bà vâng lời ca ngợi cảm tạ Chúa suốt 3 giờ liền và con trai của bà đã đi được. Một bà khác, vợ Mục sư đã nằm liệt giường hơn 20 năm cũng đã được Chúa chữa lành. Một người bị bịnh xuất huyết liên tục, sau khi cầu nguyện đã được Chúa chữa lành tức thì, người ấy đã vui mừng dâng lễ cảm tạ và hứa nguyện hàng năm dâng hiến 2 tạ gạo. Cụ Mục sư Lý của hệ phái Episcopal, trên 80 tuổi, bị viêm phổi đã lâu, mặc dầu cô con gái Lý Mục sư là một y sĩ trưởng của một bệnh viện cũng không chữa trị cho cụ khỏi được. Nhưng Tống Thượng Tiết, người thầy thuốc chỉ cậy quyền năng của Chúa này đã cầu nguyện cho cụ khỏi bệnh nên cô gái y sĩ này cũng được sự cảm động, công nhận là quyền năng siêu việt của Đức Chúa Trời vượt hơn tất cả mọi khả năng của loài người.
Quay trở về thành phố La Nguyên, đi kiệu ngang qua Phi Luyên, băng qua sông Sa Hạp, lại đi kiệu thẳng đến Hà Phố, sau cuộc truyền giảng tại Hà Phố và Mẫn Thanh thì về lại thành phố Phước Châu. Đại hội phấn hưng Phước Châu khai mạc vào ngày 25 tháng 4 năm 1938. Tuy đây chỉ là một Đại hội tổ chức rất đơn sơ nhưng số người từ các nơi về tham dự cũng hơn 400. Mỗi ngày ông giảng 3 suất: Số người đến dự buổi sáng vào khoảng trên 700; buổi chiều 1.500 và buổi tối trên 2.000. Các nhà lãnh đạo Hội Thánh đã sắp xếp cho Tống Thượng Tiết tạm ở trong nhà của một vị giáo sĩ họ Phạm, mỗi ngày phải 6 lần đi, về đến địa diểm truyền giảng. Tống Thượng Tiết biết trước là Sa-tan sẽ tìm đủ mọi cách để quấy phá công việc Chúa, nên ông đã hy sinh xin ở lại trên gác của ngôi nhà thờ cũ cho tiện việc đi lại hầu việc Chúa. Buổi chiều có vài cảnh sát và một nhân viên tình báo đến đề canh chừng Tống Thượng Tiết. Đêm hôm ấy một số người y phục đen đi một chiếc xe hơi rất đáng khả nghi đến trước cửa nhà thờ. Sai khi giảng xong, Tống Thượng Tiết lên gác, đóng chặt cửa sắt lại và đã không có việc gì đáng tiếc xảy ra. Kẻ gian ác đã dùng nhiều quỷ kế nhưng không thể ra tay ám hại Tống Thượng Tiết được nên chúng đã xoay qua dùng ngòi bút để tấn công. Nhiều thư từ gửi đến cho Tống Thượng Tiết có thư với những lời dụ dỗ, có cái thì với lời lẽ đe dọa. Trong số những thư đó có lá nói về tình hình quốc biến, cần phải tổ chức cứu quốc quân. Người Cơ-đốc cần ra tiền tuyến để chống ngoại xâm, họ nhờ Tống Thượng Tiết tiếp tay thực hiện việc này. Ông nghĩ bụng rằng: “Tôi đâu phải Ba-la-am mà bị sự dụ dỗ của danh lợi!”. Vì thế Tống Thượng Tiết đã thẳng thắn tuyên bố trên tòa giảng rằng: “Tôi đã tuân theo lệnh của Thượng Đế, chỉ chuyên tâm một lòng để truyền bá Phúc âm. Những vấn đề khác xin tạm gác qua một bên và xin mọi người thứ lỗi cho. Đại hội phục hưng Phước Châu kết thúc vào ngày 6 tháng 5. Trong lúc ấy, một Mục sư ngoại quốc từ Hưng Hóa đến và Mục sư John Coudy, Chủ nhiệm Hội Thánh Giám lý tại Phước Kiến cũng đến đó và họ đã đề nghị phong chức Mục sư cho Tống Thượng Tiết, ông vui vẻ chấp nhận đề nghị ấy. Buổi lễ phong chức và đặt tay được tổ chức vào ngày áp chót của Đại hội phấn hưng tức là ngày 5 tháng 5, lúc 9 giờ. Ông “Caudy” và ông chủ nhiệm khu vực hệ phái Giám lý tại khu vực đó đã đặt tay phong chức Mục sư Trưởng cho Tiến sĩ Tống Thượng Tiết, Mục sư Trưởng là chức hàm của hệ phái Giám lý. Một người tín hữu đầy ơn trước tiên phải được thụ phong là Phó Mục sư rồi sau một thời gian 5 năm phục vụ mới được thụ phong chức Trưởng Mục sư. Sở dĩ Tống Thượng Tiết chấp nhận thụ phong là để xóa bỏ thành kiến cho rằng ông thường quở trách các Mục sư vì ông không phải là Mục sư và ông cũng rất ít khi dùng tới danh hàm này!
Sau khi được thụ phong, Mục sư Tiến sĩ Tống Thượng Tiết đã về quê cùng với Mục sư “Caody”. Về Hưng Hóa chưa được bao lâu thì Đại hội phấn hưng Việt Nam đã gần kề, nên ông đã phải vội vã đến Hạ Môn. Dầu vậy cũng bị trễ, tàu đi Hồng Kông vừa nhổ neo 5 phút trước, ông phải ở lại Hạ Môn để lập thủ tục đi Việt Nam vào chuyến tới.
CHƯƠNG 46
VIỆT NAM VÀ VÂN NAM
(TỪ THÁNG 5 ĐẾN 8 NĂM 1938)
Sáng sớm ngày 10 tháng 5 năm 1938, quân đội Nhật tấn công vào Hạ Môn. Dân chúng ùn ùn băng qua biển đến đão Cổ Lang tị nạn. Trưa hôm ấy tiếng đại bác nổ đinh tai nhức óc. Tống Thượng Tiết đứng trên núi cao nhìn đất nước mình chìm trong khói lửa chiến tranh. Chiều hôm ấy ông đến dư tiệc tại nhà một tín hữu yêu mến Chúa để tiễn đưa ông lên đường... Tống Thượng Tiết nhớ đến Lời Chúa trong Thi Thiên 2: “Chúa dọn bàn cho con trước mặt kẻ thù nghịch con...” Sáng hôm sau, ông cùng với gần 2.000 người dân tị nạn đáp tàu Phong Khách Hồng Kông. Tàu nhổ neo không bao lâu thì thành phố Hạ Môn thất thủ. Đến Hồng Kông ngày 1 nhưng phải đợi 5 ngày mới có tàu thủy đi Việt Nam. Với tình hình hiện tại thì khó lòng đến kịp Đại hội tại Việt Nam như đã dự định. Trong khi chờ đợi tàu tại Hồng Kông, không bỏ phí một giây khắc nào, ông đã triệu tập các đoàn viên Đoàn Truyền Giáo vào trưa ngày 14 nhóm bồi linh tại Hội Thánh Báp-tít. Ông nhận thấy rằng những đoàn viên tại Hồng Kông không mấy khát khao Lời Chúa. Để tranh thủ thời giờ đào tạo những chiến sĩ mới nên ông chọn huấn luyện tại Cửu Long. Những đoàn viên tại Hồng Kông suy bì, có lời than phiền, nhưng Tống Thượng Tiết không chú tâm lắm về điều đó. Nhà thờ Hội Thánh Báp-tít tại Cửu Long không có đủ chỗ chứa những học viên mới đến dự ngày càng đông, ban tổ chức đã mượn tạm thư viện Yên Sinh để làm noi huấn luyện.
Ngày 20 tàu cập bến Hải Phòng – Việt Nam. Đại hội đầu tiên họp tại Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt. Người đến dự không đông lắm, dịch giả là một giáo sĩ người Bắc. Tống Thượng Tiết chê người vị giáo sĩ này dịch quá chậm, ngược lại người dịch lại chê những giảng dạy giáo lý của Tống Thượng Tiết quá thô thiển. Nhưng chính cái giáo lý nông cạn đó đã cứu được hơn 100 người, khích lệ hơn 55 người tình nguyện dâng mình hầu việc Chúa và thành lập được 8 tổ truyền giáo Phúc âm. Những ngày hầu việc Chúa tại Hà Nội vừa xong, Tống Thượng Tiết phải đi xe lửa ngay vào miền Nam. Qua thành phố Sài Gòn xuống Vĩnh Long (vì giáo phái Phúc âm Liên Hiệp đang tổ chức Đại hội thường niên tại đây). Các nhà lãnh đạo Tin Lành Nam Việt đều tụ họp về Đại hội, các cộng đồng người Việt, các giáo sĩ ngoại quốc cũng như người Hoa Kiều tại Vĩnh Long đều đồng công với Tống Thượng Tiết, nên những cảnh huống diệu kỳ đã xảy ra. Trước nhất là có 221 người được Chúa thăm viếng , họ đã tranh nhau mở “quan tài” của lòng mình, tranh nhau xưng nhận tội lỗi, không ai có thể cản lại được. Trong một lần giảng dạy, Tống Thượng Tiết mời 4 người lên tòa giảng, 4 người này chưa biết dụng ý của ông nên ai cũng lộ vẻ hí hửng, tưởng mình được mời lên tòa giảng là để làm gương cho người khác. Khi 4 người đã xếp hàng trên tòa giảng, Tống Thượng Tiết dùng phấn trắng viết lên nền áo đen của họ (áo dài đen là là quốc phục của người Việt Nam) những loại tội lỗi: Tham lam tiền bạc, nói dối… Sau khi viết xong, những tín hữu ngồi dưới đều lấy làm lạ vì những tội lỗi ghi lên người nào cũng đều đúng với trường hợp của người ấy, nhất là trường hợp 2 vị sau cùng. Người bị viết lên áo tội đánh nhau, đúng là sáng hôm ấy đã đánh vợ; còn người mang tội nói dối là đã từng phạm tội tà dâm, từng bị anh em trong Hội Thánh khuyên giải, nhưng một mực chối cãi. Các tín hữu tham dự hôm ấy đều to nhỏ với nhau là Mục sư Tống Thượng Tiết biết hết, quả là ân tứ của một vị Sứ đồ thời Chúa Giê-su. Rời Vĩnh Long đến Sài Gòn, Tống Thượng Tiết đã giảng dạy tại một nhà thờ của người Trung Hoa tại Chợ Lớn. Ban ngày người đến dự không đông lắm, vì còn nhiều ghế trống nền cũng hoan nghênh những người Việt Nam vào nghe. Ngày mồng 9 là ngày cuối cùng của Tống Thượng Tiết tại Chợ Lớn, ông đã dùng đề tài “Dâng mình truyền bá Phúc âm” để giảng dạy. Kết quả là có 31 người đứng dậy tình nguyện dâng mình. Những người này liền được khuyến khích tổ chức thành một Đoàn Truyền Giáo, chia thành 15 tổ, mỗi tổ 4 người và Tống Thượng Tiết tặng cho mỗi tổ đó một lá cờ Thập tự. Họ cam kết cùng nhau là mỗi tuần đi ra truyền bá Phúc âm 1 ngày. Từ đó các Hội Thánh Hoa kiều tại vùng Sài Gòn Chợ Lớn rất được hưng thịnh. Lúc Tống Thượng Tiết giảng tại Sài Gòn, người phụ trách thông dịch là Mục sư Vi Úc Lương. Một lần kia, Mục sư Vi bị bệnh bao tử cấp tính đang lên cơn đau dữ dội, ông xin kiếu, nhưng Tống Thượng Tiết trả lời rằng: “Tôi cũng đang trong cơn đau rất khó chịu, nhưng cũng phải lớn tiếng khuyên người ta phải hối cãi ăn năn. Xin chúng ta đừng để tâm đến việc đau đớn của chính mình nữa và phải chịu khó hơn nữa!”. Hai tôi tớ của Chúa, một giảng một dịch trong cơn đau đớn của thân thể mình, thật đã biểu lộ được lòng trung kiên với Chúa.
Sau đó, Tống Thượng Tiết ra miền Trung – Đà Nẵng. Mỗi lần Tống Thượng Tiết giảng người đến dự có khoảng 500. Có một người Tàu Quảng Đông lao xương đã nhiều năm, lặn lội từ rất xa đến để xin Mục sư cầu nguyện chữa bệnh. Tống Thượng Tiết bảo ông ta trước hết phải nghe Tin Lành và tin nhận Chúa Cứu Thế, từ bỏ hết mọi dục vọng, tội lỗi thì bệnh tật sẽ được chữa lành, không có gì khó khăn. Nhưng người này không hiểu được ngôn ngữ của Tống Thượng Tiết cũng như của người thông dịch nên ông đành phải cho người này đọc tuyển tập bài giảng phấn hưng.
Đọc thì ông hiểu được, càng đọc thì càng khao khát nên ông vừa đọc vừa khóc lóc ăn năn, hội chúng cũng đồng lòng với ông ta nên đã cầu thay cho ông. Vinh hiển của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ: Bệnh lao xương của ông đã được Chúa chữa lành.
Lúc trở lại Hà Nội, người Pháp hết sức thuyết phục Tống Thượng Tiết ở lại tổ chức truyền giảng, nhưng ông đã có chương trình phải trở về Côn Minh ngày 18 tháng 6 nên không thể nán lại được.
Từ Hà Nội đi xe lửa về Côn Minh, trên chuyến xe lửa này phải chui qua hơn 120 cái hầm và hơn 10 chiếc cầu sắt bắc qua sông. Cuộc hành trình này khí hậu mát mẻ nên Tống Thượng Tiết không thấy mệt nhọc lắm. Tại Côn Minh trừ những người theo hệ phái Cơ-đốc Phục Lâm và những “bầy nhỏ”, ngoài ra các hệ phái khác đều liên hiệp mời Tống Thượng Tiết giảng cho Đại hội 8 ngày. Những ngày đầu không hiểu vì cứng lòng hay bị mặc cảm xấu hổ mà không ai dám lên phía trước xưng nhận tội lỗi và cầu nguyện. Nhưng Tống Thượng Tiết vẫn kiên nhẫn chờ đợi Đức Thánh Linh làm việc và Ngài quả nhiên đã thực hiện quyền năng chữa lành cho 2 người mù thấy được và 2 người câm nói được. Sự kiện này đã làm náo động cả thành phố, cuối cùng những người thuộc “bầy nhỏ” cũng đến nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng.
Sau chiến dịch này Tống Thượng Tiết đi qua thành phố Sở Hùng, phương tiện ông di chuyển là một chiếc xe vừa cũ vừa nát. Tại thành phố Sở Hùng, Tống Thượng Tiết được nữ Giáo sĩ Cẩm Tố Trinh tiếp đãi rất nồng hậu, Cẩm Tố Trinh tên thật là Kimellia Morgan người Hoa Kỳ, nữ Giáo sĩ này đã từng dự trại hè bồi linh tại Thượng Hải, được Chúa Thánh Linh thăm viếng nên đã dâng mình đến Sở Hùng truyền giáo Phúc âm. Lúc bấy giờ dân chúng thành phố Sở Hùng chống đối Cơ-đốc giáo mãnh liệt, họ tẩy chay nữ Giáo sĩ này rất gắt gao, không ai cho cô ta mướn nhà để làm cơ sở truyền giáo. Cô mướn được một căn nhà hoang, người dân thành phố đồn rằng đây là một căn nhà ma. Đã thế người cho mướn lại không giao chìa khóa, nên cô đã phải ngủ ngoài sân mấy đêm. Sau tìm được một ổ chó nằm, cô giáo sĩ này đã vào đó tìm được chốt cửa để vào dọn dẹp căn nhà hoang, một mình ở trong đó... Những hành động đó đã cảm hóa được dân thành phố Sở Hùng. Họ cảm nhận được tình yêu thương siêu việt của cô, chẳng bao lâu, họ đã đổi thù thành bạn. Có hơn 100 người tin nhận Chúa, thành lập được 11 tổ cầu nguyện và truyền giảng, một Hội Thánh nhỏ và cửa đã mở để truyền giảng Phúc âm cho 7 huyện. Cô Giáo sĩ này đã đơn thân độc mã thành lập Hội Thánh Bê-tên tại miền Trung Vân Nam. Hội Thánh này không có liên hệ gì với Hội Thánh Bê-tên tại Thượng Hải. Để hòa đồng với người Trung Hoa, cô Giáo sĩ này đã trang phục như người Trung Hoa, ăn ở như người Trung Hoa, sống một đời sống kham khổ và khiêm nhường, chuyên tâm kính Chúa, yêu người, thế mà cũng có người chỉ trích và chống đối kịch liệt. Người này vốn là một cộng sự viên với nữ Giáo sĩ, vì lòng đố kỵ đã từ bỏ không hợp tác nữa và rồi bị ma quỷ lợi dụng để thành lập một hệ phái lấy tên là Giê-su để đối lập với người nữ Giáo sĩ này và cũng đã công kích phá hoại nhiều mặt, tìm mọi cách trục xuất người nữ Giáo sĩ tận tụy này ra khỏi xứ...
Những buổi truyền giảng tại thành phố Sở Hùng rất nhiều người tham dự vui vẻ. Có hơn 10 đại diện ở các huyện lân cận đến dự. Giáo sĩ Hàng Ái Quang cũng đưa đến 17 người trong đó có một người bị bại liệt 11 năm đã được Chúa chữa lành. Người chị em thù địch với nữ Giáo sĩ Cẩm Tố Trinh cũng có đến Đại hội với mục đích dò xét tình hình, nhưng người này mới vừa bước vào nhà thờ đã được Chúa Thánh Linh thăm viếng. Bà ta đã đứng dậy giữa hội chúng xưng nhận tội lỗi của mình và thú nhận rằng: “Trước kia những giáo lý của tôi phổ biến không phải là chân lý, tất cả những gì tôi làm đều do xác thịt xấu xa điều khiển. Đến bây giờ tôi mới nhìn biết Chúa Cứu Thế, tôi nhìn thấy con người xấu xa của tôi cũng nhờ Giáo sĩ Cẩm. Cô Giáo sĩ này đã không chấp nhất tôi, cũng không cư xử ngu xuẩn như tôi, nên con quỉ hận thù trong tôi đã bị xua đuổi ra ngoài và bây giờ tôi nhìn mọi người đều rất đáng yêu nhất là cô Giáo sĩ họ Cẩm Tố Trinh.
Thành phố Sở Hùng ngày nào cũng mưa, con đường đất bị lở nên xe cộ đã bị ngưng đọng 6,7 ngày. Tống Thượng Tiết phải lên đường gấp để đến cho kịp giảng Đại hội tại thành phố Đại Lý, khai mạc vào ngày 10 tháng 6. Ông loay hoay tìm cách nhưng chưa kiếm ra phương tiện gì. Cám ơn Chúa, trời đã ngừng mưa 1 ngày trước khi Đại hội Sở Hùng bế mạc. Ngày mồng 9 lúc 4 giờ sáng, Chúa bảo Tống Thượng Tiết hãy ra bến xe phía Đông thành phố, ông vâng lời. Quả nhiên có một chuyến xe chuẩn bị khởi hành, nhưng ông không được phép lên xe. Ông thầm nghĩ hay Chúa bảo mình đến đây để tiễn đưa một người nào khác? Vừa lúc ấy lại có một chuyến xe khác đến, nhưng lại là xe chuyên chở binh lính, thường dân không được lên. Nhưng ông vẫn cứ lên đại, người tài xế ra điều kiện nếu muốn đi phài trả 21 đồng thì có thể “du di “ được!... Đến thành phố Trấn Nam mới biết rằng chuyến xe trước sợ bị nhà binh trưng dụng nên không dám khởi hành, chuyến xe sao có Tống Thượng Tiết tháp tùng là xe chở binh sĩ nên không ai dám nhận xét gì. Sự sắp đặt của Chúa thật diệu kỳ! Kỳ diệu càng hơn nữa là khi đi ngang qua thành phố thành phố Sa Kiều là nơi cô Hàng Ái Quang đang hầu việc Chúa. Quân đội muốn dùng nhà thờ làm nơi đóng quân nhưng vì có sự hiện diện của Tống Thượng Tiết, nên hình như ông là người bảo vệ cho cô Hàng. Chúa đã kêu gọi một thiếu nữ họ Hầu từ thành phố Công Minh và hướng dẫn cô này đến Sở Hùng để làm quen với cô Hàng Ái Quang, chẳng bao lâu sau 2 cô đã trở nên 2 người bạn chí thân. Sau kì Đại hội tại Sở Hùng, thiếu nữ họ Hầu này đã cùng Hàng Ái Quang đến Sa Kiều để cùng nhau hầu việc Chúa. Trước đó ít ngày, cô Hàng Ái Quang đã được Chúa khải thị cho biết rằng trong vòng ít ngày nữa Tống Thượng Tiết sẽ đi ngang qua đây nên cô đã chuẩn bị một căn phòng trên lầu cho ông đến có chỗ để nghỉ ngơi. Tống Thượng Tiết quả đã đến nhưng với các quân nhân và cũng đi với các quân nhân. Cô Hàng Ái Quang đã quen với những cuộc đi quân như thế này, nhưng riêng cô Hầu thì rất lo âu. Tống Thượng Tiết hiệp chung với 2 người nữ truyền đạo cầu nguyện và họ đã có được 1 đêm Chúa giữ gìn bình an. Ngày hôm sau, Tống Thượng Tiết lại tiếp tục tháp tùng xe nhà binh, giống như người lính chiến đã nhận lệnh tiến quân ra tiền tuyến.
Xe chạy trên đường núi khúc khuỷu, ghồ ghề nên bị trục trặc nhiều lần và cuối cùng phải dừng hẳn! Các chiến sĩ phải xuống xe và chuẩn bị đi bộ, nhưng còn Tống Thượng Tiết thì làm sao? Hơn 100 dặm đường dài còn lại, ông không thể theo kịp những người lính đầy sức lực trẻ trung này, chắc là ông sẽ bị rơi rớt lại và sẽ trở nên người khách độc hành giữa rừng núi hoang vu. Ông quyết định ở lại cùng người tài xế và khuyến khích anh ta tiếp tục sửa chữa chiếc xe, ông còn bảo đảm với anh ta là: “Chắc chắn lần này anh sẽ sửa được vì tôi đã cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời”. Quả nhiên một lúc sau, chiếc xe đã nổ máy. Các binh lính tranh nhau lên xe. Người tài xế lại trách ông sao không cầu nguyện sớm hơn tí nữa! Khoảng 5 giờ chiều xe đến thành phố Hạ Quang cách Đại Lý khoảng 30 dặm. Nữ truyền đạo Trần Ngọc Linh đang truyền giáo tại Hạ Quang và đã gây dựng được một Hội Thánh hơn 70 tín hữu. Cô có ý mời Tống Thượng Tiết ở lại giảng bồi linh cho Hội Thánh này nhưng ông không thể chiều ý được nên đã bảo cô phái 10 người đến tham dự Đại hội ở Đại Lý. Tống Thượng Tiết dùng xe kéo tiếp tục cuộc hành trình. Lòng người dân thành phố Đại Lý rất cứng cỏi. Bao nhiêu nhà truyền đạo đã làm việc tại đó đã 60 năm mà chỉ có 2 người tin nhận Chúa! Một buổi sáng kia, ông đã triệu tập những tín hữu Trung Hoa cũng như những Giáo sĩ ngoại quốc đến cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện, ông đã khóc lóc khẩn nài cùng Chúa và buổi truyền giảng hôm đó Chúa đã cho có 98 người tin nhận Chúa, trong số đó có 18 người dâng mình hầu việc Chúa.
Tống Thượng Tiết tiếp tục đến các thành phố Hạ Quang rồi Sa Kiều, tháp tùng theo ông có khoảng 20 tín hữu. Còn khoảng 100 dặm nữa mới đến được thành phố Nhiêu An, mới đi được 10 dặm thì trời kéo mây đen mịt mù, đe dọa một trận mưa rất lớn! Ông liền cầu nguyện xin Chúa cho tạnh mưa, cho trời mát mẻ để tiếp tục thu ngắn đoạn đường xa. Trong lúc ấy, nữ truyền đạo Cẩm Tố Trinh cũng từ thành phố Diêm Pho đi đến Nhiêu An, cùng một con đường của đoàn người Tống Thượng Tiết nhưng ngược chiều... cô truyền đạo thấy phía xa vần vũ mây đen nặng chĩu nên đã cầu xin Chúa cho gió đẩy mưa về phía cô để Tống Thượng Tiết cùng đoàn người tháp tùng được đi trong tạnh ráo! Khi đến Nhiêu An, mọi người biết rằng Chúa đã nhậm lời cho Tống Thượng Tiết đã không bị mưa ướt nên rất hớn hở, vui mừng như những đứa trẻ. Điều này khiến cho Tống Thượng Tiết được yên ủi khích lệ nhiều.
Mưa rào đã trút xuống nên thành phố Nhiêu An đã ngập lụt, những người đến dự Đại hội vẫn rất đông đúc, cũng có nhiều người từ các huyện lân cận như Diêm Phong, Nhiêu Châu đến tham dự. Cộng sự viên ngày trước đã từng bắt bớ Giáo sĩ Cẩm nay cũng cùng chồng đến tham dự. Người chồng đã đứng giữa hội chúng làm chứng rằng, hồi trước ông ta đã có ý định giết Giáo sĩ Cẩm, bây giờ biết mình là người có tội và đã thật lòng ăn năn. Đôi bên không còn giận hờn và đã đổi oán trách ra thân yêu vì cùng là con cái của Chúa, cùng truyền bá Phúc âm, phát triển Hội Thánh Ngài. Mọi người nghe lời chứng ăn năn hối cãi ấy mà được gây dựng, phục hưng.
Một nữ giáo sĩ khác tại thành phố Quảng Thông phục vụ Chúa bằng cách thiết lập vườn trẻ và thường đến các nhà tù để truyền bá Phúc âm. Cô đã gây dựng được một Hội Thánh được hơn 80 tín hữu. Cô đã tháp tùng với Tống Thượng Tiết từ Nhiêu An băng qua Trấn Nam, Sở Hùng đến Nhứt Bình Lãng. Cô cưỡi lừa để đi theo chiếc kiệu của Tống Thượng Tiết. Đến Trấn Nam không mướn được kiệu nữa, nên cô đã nhường lừa cho Tống Thượng Tiết cưỡi, còn mình thì đi bộ, tuy đoạn đường còn rất xa. Rất may là khi đến Sở Hùng lại mướn được kiệu...
Ra khỏi Nhứt Bình Lãng khoảng 10 dặm là thành phố Xã Tư, tại đây có một nữ giáo sĩ mới ngoài 20 tuổi. Xã Tư là một thành phố gần như hoang vu, dân cư thưa thớt nghèo nàn... người nữ giáo sĩ trẻ này đã mướn 1 căn phòng thật là thô sơ, tồi tàn, tiền mướn mỗi năm là 40 đồng. Cô lại còn nuôi 1 đứa bé bị tật sứt môi. Mỗi tháng, 2 cô cháu chỉ có 15 đồng bạc để chi dùng. Cuộc sống thật kham khổ chật vật. Trong phòng kê 1 chiếc giường gỗ, 1 chiếc bàn nhỏ ọp ẹp, ngoài ra không còn một vật gì!... Trong dịp Tống Thượng Tiết đi qua thành phố, người nữ Giáo sĩ trẻ đã ra tiễn đưa ông. Khi thấy hoàn cảnh của cô, Tống Thượng Tiết đã phải thốt lên: “Vân Nam đã được Thượng Đế hậu đãi, biết bao nhiêu thanh niên nam nữ Trung Hoa đã đến đây khai hóa và truyền bá Phúc âm. Nhất là cô Giáo sĩ ngoại quốc trẻ tuổi này. Cô ta đã bỏ quê hương, không quản ngại ngàn dặm xa xôi, đến nơi hẻo lánh này để chịu cô quạnh, gian khổ bần cùng đầy gian nan bắt bớ, cô ta quả là một của lễ sống đã tình nguyện chôn tuổi thanh xuân trong một nước xa lạ giữa một dân tộc xa lạ... Tống Thượng Tiết ơi, Tống Thượng Tiết ơi, hãy theo gương đó mà đừng phụ ơn Chúa!...”
Sau đó họ tiếp tục đến Côn Minh bằng xe hơi. Sáng ngày 4 tháng 8 rời Côn Minh, băng qua Việt Nam hướng lên Hồng Kông mà về Thượng Hải. Chương trình hoạch định là 5 giờ sáng đến Hà Nội, 11 giờ đến Hải Phòng, 12 giờ xuống tàu thủy hướng về miền Đông rồi quay về hướng Bắc mà về Trung Quốc. Nhưng xe lửa đến Việt Nam đã bị trễ 51 phút, nên chắc chắn là không thể kịp chuyến xe lửa Hà Nội – Hải Phòng. Tống Thượng Tiết rất nóng lòng, nên đã cầu nguyện xin Chúa giữ chuyến xe Hà Nội – Hải Phòng lại. Quả nhiên Chúa đã nhậm lời, Tống Thượng Tiết vừa đến Hà Nội đã vội vã lên tàu, vừa đặt chân lên được toa xe là tàu chuyển bánh, Tống Thượng Tiết sửng sốt đến bàng hoàng, một giây lâu sau mới hoàn hồn, trở về thực tại và đi tìm chỗ ngồi.
CHƯƠNG 47
THÁI LAN, TÂN-GIA-BA VÀ MÃ LAI
(HẠ BÁN NIÊN 1938)
Mùa hè oi bức của 1938 vừa qua, Tống Thượng Tiết đã nhận lời mời đến Thái Lan. Tàu vừa cập bến Bangkok, Giáo sĩ Margaret Mecor của hệ phái Trưởng lão Hoa Kỳ cùng một số đại diện tín hữu Trung Hoa đã lên tàu đón mừng Tống Thượng Tiết. Chỉ mới nhìn thấy Tiến sĩ Tống Thượng Tiết với mái tóc úp ngang trước trán, họ đã thấy lòng vui thỏa. Đại hội phấn hưng dự trù tổ chức tại Hội Thánh Tâm Liên, Bangkok. Mỗi ngày có 3 buổi thuyết giảng, liên tục trong 7 ngày. Buổi sáng và chiều giảng bồi linh cho tín hữu, những tín đồ người Trung Hoa tham dự nhiệt thành. Những Giáo sĩ ngoại quốc cũng có tham dự, nhưng nghe đồn rằng Tống Thượng Tiết thuộc phái “cảm xúc”, nên họ cũng rất dè dặt. Nhưng vào nghe Tống Thượng Tiết giảng, thấy toàn là những giáo lý thuần chính nên họ đã có thái độ cởi mở để tiếp nhận những chân lý trong sứ điệp của ông. Ban đêm dành cho truyền giảng, người Trung Hoa và người Thái Lan đến dự nghe ngày càng đông. Tống Thượng Tiết giảng bằng Anh ngữ và được dịch ra Thái ngữ và Hoa ngữ (Triều Châu). Trong một đêm truyền giảng, Tống Thượng Tiết đã dùng Lu-ca đoạn 9, truyện người thâu thuế Xa-chê. Ông kêu gọi mọi người noi gương Xa-chê: Xưng nhận tội lỗi của mình và khi đã được Chúa tha thứ thì lấy tài sản mình bù đắp cho những kẻ nghèo khó. Ông cũng dùng ví dụ này để làm sáng tỏ vấn đề: “Có một bà góa nọ, có một con trai độc nhất nên rất yêu quí và nuông chiều. Cậu này biết là mẹ rất yêu thương mình, không bao giờ quở phạt nên đã bắt chước bạn xấu làm chuyện xằng bậy: Cậu ăn cắp tiền của mẹ để rượu chè, cờ bạc. Mẹ hết tiền cậu quay ra trộm cắp. Bị bắt, đưa ra tòa bị phạt vạ đến 500 đồng. Người mẹ vẫn một lòng thương con, muốn chuộc con nhưng không sao có đủ 500 đồng. Nhưng bà vẫn không tuyệt vọng, đã đi làm thuê gánh đá mướn mỗi ngày chỉ được 100 đồng xu. Bà tính là tích lũy dần trong vài ba năm nữa thì sẽ có đủ tiền để chuộc đứa con yêu dấu của mình ra khỏi vòng tù tội. Vì tình yêu con thúc đẩy nên bà cứ làm, không quản ngại nhọc nhằn. Một hôm chẳng may bà bị sẩy chân vấp ngã rất nặng đến phải gãy tay và ngất xỉu tại công trường. Người chủ thấy được đã cứu sống bà và hỏi han bà, tại sao bà đã lớn tuổi mà còn phải làm việc lao khổ như vậy. Bà cụ bèn đem tất cả sự thật trình cho chủ nghe... Rồi kết luận, hôm nay tôi bị rủi ro như thế này, làm sao còn có thể làm nữa để tích lũy đủ số tiền 500 đồng để chuộc con tôi? Nói xong nước mắt bà cụ cũng tuôn trào theo với nỗi lòng quặn thắt. Người chủ thấy hoàn cảnh đáng thương của bà cụ nên đã tặng 500 đồng để đóng tiền phạt cho con. Khi con ra khỏi tù, bà cụ đã nói cùng con: “Con ơi, con hãy nhìn cánh tay gãy của mẹ. Mẹ đã gãy cánh tay này để đổi lấy sự tự do cho con, con còn muốn đi rượu chè, cờ bạc nữa chăng?”. Cậu con đã biết ăn năn, hối hận khóc sướt mướt vì tình yêu trời biển của mẹ đối với mình. Về sau những bạn bè xấu vẫn tiếp tục quyến rũ cậu vào con đường tội lỗi, nhưng cậu một mực từ chối, vì làm theo lời bạn bè và tánh ích kỷ của mình thì là bất hiếu với mẹ vô cùng!”
Kể xong câu chuyện, Tống Thượng Tiết nhắn nhủ với thính giả rằng: “Anh chị em thân mến, Chúa Giê-su yêu quí vị cho đến nỗi đã vì tội lỗi của quí vị mà đã giáng thế làm người. Thậm chí bỏ mình vì quí vị trên cây thập tự để cứu chuộc tội lỗi của quí vị. Chúa nhân từ đã vì quí vị mà chịu nhục hình quá lớn, lẽ nào quí vị không noi gương Xa-chê quyết tâm từ bỏ tội lỗi của mình, để trở nên một con người mới được sinh lại? Mong quí vị hãy noi gương Xa-chê, xưng nhận mọi tội lỗi của mình, không những chỉ làm một người được Chúa cứu mà còn là một người biết yêu thương người khác”. Trong số thính giả đang nghe Tống Thượng Tiết có một số người trước kia đã từng được nghe ông giảng tại Xoa Thô. Họ đều công nhận rằng sự giảng của Tống Thượng Tiết bây giờ sâu nhiệm hơn, lý luận vững chãi hơn... Kết quả chiến dịch truyền giảng này có hơn 700 người hối cãi và tin nhận Chúa Cứu Thế, trong số đó có 100 người dâng mình đi hầu việc Chúa. Sau chiến dịch, ông đã thành lập được 30 tổ truyền giáo, những đoàn viên của Đoàn Truyền Giáo đã nguyện ước rằng mỗi tuần ít nhất phải đi truyền bá Phúc âm 1 lần, mỗi tháng tổ chức trại 1 lần để những đoàn viên được bồi dưỡng tâm linh và trao đổi kinh nghiệm. Theo tường trình của Giáo sĩ Mecor thì tín hữa Hoa Kiều tại Thái Lan được phấn hưng mạnh mẽ, điều này nữ Giáo sĩ này chưa từng chứng kiến và đây cũng là kết quả do sự cầu nguyện của chính họ trong suốt 30 năm qua. Sau Bangkok, Tống Thượng Tiết đến Nakhum Batom truyền giảng trong 7 ngày, rồi từ đó qua Tân-gia-ba...
... Đến Tân-gia-ba, Tống Thượng Tiết dùng nhà thờ Hội Si-ôn làm địa điểm cho hội đồng bồi linh 10 ngày cho toàn thể tín hữu trong vùng Đông Nam Á. Người đến tham dự vô cùng đông đúc và người giảng dạy đầy quyền năng của Đức Thánh Linh... Sau chiến dịch bồi linh và truyền giảng đã thành lập được 51 đội truyền giáo. Cộng với những đội đã thành lập trước, tổng số là 183 đội. Đoàn Truyền Giáo Tân-gia-ba đã thành lập năm 1935 bây giờ càng vững mạnh hơn. Các người chị em như Ngô Tĩnh Linh, Hoàng Bích Loan... đã cổ động tài chánh để xây dựng một tu viện gọi là Học viện Kim Luyện Linh (đã thành lập ngày 14-5-1937) và có một nền tảng giáo lý vững vàng. Tống Thượng Tiết chứng kiến những công trình này cũng như những thành quả Chúa ban cho ông, những con cái Chúa đã phục vụ hết mình và hết lòng kính yêu Chúa nên ông rất được khích lệ và yên ủi. Tống Thượng Tiết càng thấy lời của Gamalio là chân lý: “Điều gì đến từ Đức Chúa Trời thì không bao giờ bị hủy diệt”. Ngày 13-11, Tống Thượng Tiết đã dùng Khải Huyền chương 3:7-11 làm nền tảng giảng dạy: “Phi-la-den-phi chẳng những là một Hội Thánh thánh khiết mà còn nắm giữ chìa khóa của vua Đa-vít, nếu đã mở thì không ai đóng được và đã đóng thì không mở được vì Chúa biết được việc làm của họ, họ có sức mạnh là tuân theo chân lý của Chúa, họ đã không rời bỏ danh của Thượng Đế trên họ nên Chúa đã mở rộng cánh cửa truyền giáo và khi đã mở rồi thì không ai đóng lại được. Trên bước đường tôi đi truyền giáo, khi đến thành phố Tây An thuộc Thiểm Tây đã thấy một mộ bia của một Giáo sĩ Cảnh Giáo (Nestorian) hơn 1.000. Cảnh Giáo là một tà phái Cơ-đốc giáo. Tuy Cảnh Giáo đã đến Trung Quốc trong một thời gian nhưng chẳng bao lâu sau đã vắng bóng, cửa đã đóng thì không ai mở được. Tôi hằng ngày vác thập tự giá đi trên đường hẹp để truyền bá Phúc âm, nhưng Đức Chúa Trời đã mở cánh cửa cho tôi chẳng những tại nội địa Trung Quốc mà còn cả Đài Loan, và toàn vùng Đông Nam Á. Cánh cửa của Chúa đã mở thì càng ngày càng rộng. Các anh chị em thân mến, nếu anh chị em chịu gánh vác thập tự giá của Đức Chúa Trời, chắc chắn Ngài sẽ mở của truyền giáo cho chúng ta. Có một người đã hỏi tôi: “Khi đi truyền giáo ông có một chiêu bài nào không?”. Tôi trả lời: “Tôi không có một bí quyết nào, tôi chỉ rao truyền chân lý của Thập tự mà thôi! Trước ngày Đại hội tại Phước Châu có một vị Tiến sĩ trước tôi đã giảng cho Đại hội. Các Hội Thánh đã chuẩn bị cho ông thật chu đáo, giới thiệu về ông rất nhiều, trường học cũng cho học sinh nghỉ để đến dự nghe. Nhưng khi tôi đến không mấy ai lưu tâm, trường học vẫn sinh hoạt bình thường.. do đó số người đến tham dự rất thưa thớt! Tôi không giảng một điều gì khác hơn là Thập tự giá của Chúa Cứu Thế Giê-su. Có người đã nói cùng tôi rằng: “Ông là một Tiến sĩ khoa học, tại sao không nói gì về khoa học mà chỉ toàn bàn đến thiên đàng và địa ngục?” Tôi trả lời: “Khoa học tôi đã quên cả rồi, Đức Chúa Trời đã cất nó lìa khỏi tôi, nên bây giờ tôi chỉ nói về Thập tự giá!”. Mặc dù đề tài đó không quyến rũ con người, nhưng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã hành động nên số người đến nghe ngày càng đông, học sinh tuy không được nghỉ nhưng cũng tự động đến tham dự. Trời mưa suốt thời gian chiến dịch, nhưng đêm nào nhà thờ cũng không còn một chỗ trống. Sau chiến dịch đó có hơn 10 người đã cùng tôi lên Thượng Hải để được huấn luyện thêm, hầu sẽ đi ra hầu việc Chúa. Chúa đã mở thì không ai đóng lại được. Tôi xin đang cử một thí dụ điển hình về tấm lòng thuận phục Chúa và vì danh vinh hiển của Ngài mà phục vụ. Có một người anh em, vốn rất thích ăn ngon mặc đẹp... nhưng sau khi được Chúa thăm viếng, đã tình nguyện dâng hiến cả cuộc đời mình lên tận Mông Cổ để truyền bá Phúc âm. Ông ta đã sống một cuộc sống kham khổ, ban đêm màn trời chiếu đất, ban ngày truyền chân lý của Chúa Cứu Thế. Ông đã sống và ăn mặc như người Mông Cổ. Đã lâu ngày không được cạo mặt nên râu ria ra xồm xoàm giống hệt như người Mông Cổ. Nếu ông không tự giới thiệu thì tôi đã không thể nào nhìn ra con người “ngày xưa” của ông.”
Hôm sau là ngày 14, Tống Thượng Tiết đã dùng II Cô-rinh-tô đoạn 15:14 để làm chứng chính ông đã dâng cuộc đời mình là vì tình yêu của Chúa, ông không còn sống cho chính mình nữa. Tống Thượng Tiết nhận thấy số thính giả phái nữ nhiều hơn phái nam rất nhiều nên đã dùng chuyện tích của bà Li-đi để khích lệ hội chún: “Ngày Chúa đến sẽ thấy nhiều bà Li-đi người Trung Hoa!”
Rời Tân-gia-ba, Tống Thượng Tiết đã đến Kua-la-lum-pur , Y-pô, Taijing, đảo Pinang... Rất nhiều người được nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm mà tin nhận Chúa. Cũng có nhiều người chỉ mang danh Cơ-đốc nhân cũng đã được làm mới lại một thần linh ngay thẳng. Nhiều Hội Thánh và các Đoàn Truyền Giáo đã được thành lập tại những nơi Tống Thượng Tiết đi ngang qua truyền giáo.
Vì quá lao lực, cũng như lao tâm nên sức khỏe của Tống Thượng Tiết ngày càng suy yếu: Bệnh tim bộc phát, lưng đau nhức và liên tục bị bệnh cảm cúm hành hạ, nhưng ông đã không tiếc thân thể của mình, vẫn tiếp tục đi hết nơi này đến nơi khác, giảng dạy Đại hội này qua Đại hội khác, mỗi ngày giảng 3,4 bài là chuyện bình thường của ông. Đàm đạo cá nhân với những người đến thăm viếng, rất ít thì giờ ngơi nghỉ. Có một hôm nhận lời giảng tại Penang, nhưng phải nhờ người khác dùng ghế bố khiêng lên tòa giảng. Khi giảng ông chỉ nói đủ cho người thông dịch nghe và người này đã lớn tiếng thông dịch lại cho cả hội chúng. Lần giảng dạy này, Tống Thượng Tiết như đã kể lại “cuộc hành trình” của ông đã đi và giảng dạy tại các nơi khác... “Bây giờ tôi cảm thấy đã yếu mỏn và mỏi mệt. Những ngày tôi xông xáo, lớn tiếng khi giảng dạy, nhảy lên nhảy xuống tòa giảng... ngày ấy thật sự đã xa rồi!... Ước nguyện của tôi là được về với Chúa tại trên bục giảng đang lúc truyền bá Phúc âm của Chúa Cứu Thế.”
Cuối năm 1938, Tống Thượng Tiết về Thượng Hải, nghỉ ngơi một thời gian ngắn tại nhà riêng, sống những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi với gia đình. Tuy thời gian rất ngắn nhưng ông cũng hồi phục được phần nào sức khỏe.
CHƯƠNG 48
LẦN ĐẦU TIÊN ĐẾN JAVA (MÙA XUÂN 1939)
Sau khi được tịnh dưỡng nghỉ ngơi đôi chút tại nhà. Tống Thượng Tiết tuy không còn tráng kiện như xưa, nhưng sức khỏe cũng phần nào hồi phục, nên lại bắt đầu đi ra làm việc. Lúc ấy quân đội Nhật đã chiếm đóng phía Đông Trung Quốc. Trong những vùng bị địch chiếm đóng, quân đội Nhật rất hạn chế việc truyền giảng Phúc âm. Từ những khu đã bị chiếm mà đi vào những khu tự do, không phải là không thể được, nhưng vô cùng khó khăn nên Đông Nam Á là vùng còn có thể đến để truyền giảng dễ dàng mà thôi. Những thành phố của vùng này người Hoa cư ngụ rất đông. Chỉ những phần đất thuộc địa của Hòa Lan là Tống Thượng Tiết chưa đến. Hội Thánh Huê Kiều tại Nam Dương có thư mời Tống Thượng Tiết và ông thấy đây cũng là lúc thuận tiện để đáp lời mời ấy.
Tháng giêng năm 1938, Tống Thượng Tiết đến thành phố Sarabagia, phía Đông đảo Java. Tín hữu Cơ-đốc người Hoa cũng như nhiều thân hữu đã tranh nhau đến nghe người mà họ hằng ngưỡng vọng truyền giảng Phúc âm. Người Hoa cư ngụ tại đây dùng nhiều ngôn ngữ khác nhau nên cuộc truyền giảng đã phải nhờ đến 2 người phiên dịch: Tiếng Hạ Môn và tiếng Mã Lai. Ngày đầu ông đã dùng ngụ ngôn “người con trai hoang đàng” trong Lu-ca đoạn 15 để truyền giảng. Trước khi giảng, ông đã hướng dẫn hội chúng hát Thánh ca. Những đoản ca do ông tự biên soạn như “Hãy về nhà Cha” hội chúng thuộc lòng rất nhanh. Sau khi hát, ông mời mọi người cứ tự nhiên lớn tiếng cầu nguyện, nhưng họ chưa quen với lối cầu nguyện như vậy nên rất ít người hưởng ứng. Ông phải yêu cầu hội chúng cầu nguyện theo ông, ông cầu nguyện 1 câu thì hội chúng lặp lại câu đó. Cả hội chúng cầu nguyện xong, Tống Thượng Tiết bắt đầu giảng. Nhiều người đã từng được nghe Tống Thượng Tiết, tưởng rằng sẽ phải nghe lại câu chuyện “người con trai hoang đàng” mà họ đã quen thuộc. Nhưng họ nhận ra rằng ông rất thích dùng đề tài này khi truyền giảng, nhưng mỗi một lần đều có nội dung mới, quyền năng mới. Mỗi lần giảng thì như cặn kẽ hơn, khúc chiết hơn. Lần này ông đã nhấn mạnh đến tấm lòng đứa con hoang đàng lưu luyến thế gian. Người lãng tử chìm đắm trong tội ác, tiêu sạch hết phần gia tài của mình thừa hưởng, không còn chừa lại một chút gì. Hoang phí bao nhiêu tiền của, nhưng phần tinh thần lại không còn lại được gì, quả đúng như một câu châm ngôn đã dạy: “Khoái lạc là cội nguồn của khổ đau”. Tiền bạc đi ra thì liền tiếp theo là đói khổ! Từ địa vị con của một đại điền chủ giàu có, trở thành một gã chăn heo. Tệ hại hơn nữa là ăn không đủ no nên đành phải lấy vỏ đậu là thức ăn của heo mà ăn. Khi đã ăn đồ ăn của heo là tự hạ mình xuống cấp của loài heo! Lấy của thừa hưởng ra đi là chấm dứt tình nghĩa cha con. Thế rồi dâng hiến những gì thừa hưởng để mua lấy những giây phút lạc thú, hậu quả là đói, lạnh, cơ cực và trở nên loài.. heo! Yêu thế gian đến mức độ ấy quả là khó có xưa nay. Nếu quí vị lấy hết cái mức độ yêu thế gian đó mà yêu Thượng Đế thì thật là vô cùng tốt lành. Nhưng con người khi yêu Thượng Đế lại yêu với thái độ cầm chừng. Thật đáng thương thay! Người lãng tử trong ngụ ngôn khi tiền tài đã hết, thì bao nhiêu gái đẹp, bạn thân, rượu ngon, lạc thú đua nhau ra đi... Khoái lạc đã tan theo mây khói. Đi tìm lạc thú ở đời như ban đêm đi vớt mặt trăng dưới lòng sông, sáng ngày bẻ bàng đi về với 2 bàn tay trắng, thân xác rã rời, mệt mỏi... Giảng xong, Tống Thượng Tiết mời những ai muốn tin nhận Chúa Cứu Thế xin đưa tay lên, ban đầu hội chúng còn dè giữ, chỉ vài cánh tay đưa lên, nhưng càng về sau người tin nhận càng nhiều, phía trước tòa giảng là một rừng người với cánh tay đã đưa cao. Tống Thượng Tiết mời những người đã đưa tay quỳ gối xuống để cầu nguyện và xưng nhận tội lỗi của mình, và sau đó ông mời tất cả mọi người đã xưng nhận đức tin phải trung tín đến dự nhóm những buổi còn lại vì Tống Thượng Tiết đã có dự định giảng 22 bài thâu gọn toàn bộ Phúc âm, nếu vắng mặt 1 buổi coi như không nhận lãnh được toàn bộ ân phúc mà Thượng Đế muốn ban cho. Những người Trung Hoa cho Tống Thượng Tiết biết rằng buổi chiều và tối thì thuận tiện cho việc học giáo lý hơn, buổi sáng thì ít ai có thể dự được vì còn phải đi làm việc. Nhưng Tống Thượng Tiết vẫn giữ nguyên ý định là phải giảng dạy tất cả giáo lý đã soạn trong vòng 1 tuần lễ, và Lời Chúa phải được giảng dạy đầy đủ. Nhiều người Trung Hoa đã chiều theo quyết định của Tống Thượng Tiết là thà không mở tiệm buôn bán buổi sáng còn hơn bỏ những buổi học Lời Chúa quý báu, không thể có dịp tiện thứ hai. Bài giảng thứ hai của Tống Thượng Tiết là “Quyền năng của huyết Đấng Cứu Thế”. Ông đã xác nhận sự kiện Chúa Cứu Thế Giê-su đã bị đóng đinh trên cây thập tự là một sự thật. Bài giảng sống động và sâu nhiệm. Cả hội chúng đã im phăng phắc, một cây kim rơi xuống cũng có thể nghe thấy. Cả hội chúng chẳng những được nghe về vấn đề Thượng Đế đã chết cho loài người mà còn hình dung được hành động của Chúa Cứu Thế vì tội lỗi của họ mà chịu hành phạt và chịu chết. Tiếp đến ông giảng về nguồn nuốc sống, thiên đàng, địa ngục, một đời sống bằng đức tin, hối cãi, tái sanh, dâng mình hầu việc Chúa, Chúa Cứu Thế tái lâm... Cả hội chúng đều cảm nhận rằng mỗi bài giảng là một bài học sống động, gây ấn tượng sâu sắc và không thể nào phai mờ trong trí nhớ, nhất là khi ông giảng về tình yêu thương của Thượng Đế trong I Cô-rinh-tô đoạn 13, và ông lồng vào sơ lược về tiểu sử của chính mình. Ông đã nói lên một con người tự cao tự đại, khoe mình, trái ngược hẳn với bản tính khiêm nhường, yên lặng của Chúa. Một con người thể ấy đồng liệt với kẻ có tội, quả thật con người là hư vong, đáng bị đóng đinh, chết trên cây thập tự và không thể có một lời nào tự biện hộ cho mình... Nhưng vì lòng nhân ái của Thượng Đế, Ngài đã bằng lòng chết trên cây thập tự vì chúng ta. Lời của Thượng Đế đã được giãi bày cách tự do và là ánh sáng soi dọi cho chúng ta nhìn thấy được vi phạm cũng như tội lỗi của mình, đồng thời Lời Chúa cũng có năng quyền ban cho người nghe năng lực để có can đảm xưng nhận tội lỗi và muốn gội rửa những xấu xa tội lỗi của mình.
Sau mỗi buổi truyền giảng, Tống Thượng Tiết đều dành thì giờ và cơ hội cho những người muốn đầu phục Chúa có dịp để xưng nhận tội lỗi của mình. Ông cũng nhận lời đặt tay cầu nguyện cho những người khao khát quyền năng và ân tứ của Chúa Thánh Linh.
Một nữ Giáo sĩ người Hòa Lan, cô Conerly Bobe đã thuật lại là không khí sung mãn cũng như nhiệt tình của hội chúng trong nhà thờ dâng trào như ba đào tràn tuôn, cô nói tiếp những làn sóng lớn mạnh mẽ đó phải được duy trì để mở mang nước Chúa trên đất này. Trên 30 tổ truyền bá Phúc âm “tam tam” đã được thành lập. Những tổ viên tay cầm cờ thập tự đi đến trường học, bệnh viện, vào các hang cùng ngõ hẻm để rao giảng Phúc âm của Chúa Cứu Thế Giê-su. Đó là những tổ truyền giáo đầu tiên đã được thành lập trên đảo Java. Tống Thượng Tiết thành lập xong các tổ của các địa phương trên toàn đảo, sau đó ông mở lớp huấn luyện trong 10 ngày. Số tổ viên truyền giáo rất đông nên không thể tổ chức huấn luyện trong nhà thờ được mà phải dựng thêm những trại lớn.
Trước khi rời thành phố, một buổi sáng Tống Thượng Tiết được thúc giục triệu tập một buổi nhóm cầu nguyện đặc biệt cho những người bị bệnh. Những người tham dự buổi nhóm này phải được Mục sư quản nhiệm chứng nhận là đã từng dự nghe giảng trên 3 ngày, hôm ấy những người bị bệnh đến dự chiếm đa số. Tống Thượng Tiết dùng thư Gia-cơ đoạn 5:14-16, và giải thích cho thính giả biết rằng Đấng có quyền chữa bệnh là Chúa chứ không phải là dầu cũng chẳng phải là người xức dầu. Người xức dầu cũng chỉ là một tôi tớ của Chúa mà thôi. Sau bài giảng, những người bệnh nối tiếp nhau đi lên. Ông đã nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su xức dầu cho họ, và ra lệnh cho bệnh tật rời khỏi họ. Những người được Chúa chữa lành chiều hôm ấy đều đến dự nhóm, trong số ấy có bạn đồng hương của nữ Giáo sĩ Bobe. Bệnh của cô này rất nguy kịch, nhưng sau khi được xức dầu, cầu nguyện cơn bệnh đã lìa khỏi cô. Về sau cô ấy đã trở thành 1 sứ giả rất đắc lực cho Phúc âm. Tất cả những người tham dự nghe Tống Thượng Tiết giảng tại Java, thấy ông rất mệt nhọc cũng như tình yêu linh hồn đồng bào và đồng loại, đã cảm hóa mọi người, một tình cảm sâu sắc giữa diễn giả và thính giả. Một ràng buộc ruột thịt phát sinh, ông như người cha đã sanh họ ra trong Chúa Thánh Linh, họ nhìn thấy tình yêu thương ấy xuất phát từ đáy lòng của ông.
Sau khi chia tay cùng Tống Thượng Tiết, những con người đã dâng mình cho Chúa đã quyết tâm sống theo mẫu mực của Ngài. Lòng họ tràn ngập niềm vui và phước hạnh từ Chúa Thánh Linh, đó là một cuộc sống tâm linh mà họ chưa từng nếm trải. Tiếp theo Tống Thượng Tiết đến Patlagongan, Cemaran và Bandong thuộc miền Trung đảo Java cũng như những nơi khác. Những hạt giống được gieo ra và gặt hái những thành quả thuộc linh cho Chúa thì giấy mực không thể tả hết được.
Trong tuần tháng 2, Tống Thượng Tiết đến thủ đô Pattavia của East India (Đông Ấn Độ) một thuộc địa của thực dân Hòa Lan, tức là Jakarta ngày nay. Địa điểm truyền giảng là một nhà thờ rộng lớn của người Bồ Đào Nha. Mỗi tối có hơn 2.000 người đến dự thính, đó là những buổi truyền giảng lớn chưa từng có ở Pattavia. Nội dung những buổi truyền giảng không khác bao nhiêu với những buổi truyền giảng đầy ơn và được Chúa ban phước trước đây. Nhưng có một điều đáng ghi nhớ là trong số thính giả có một người đã thắc mắc về sự sống lại của thân thể: “Thưa ông, sau khi con người chết thì rữa nát, hư thối thì làm sao có thể sống lại được?”. Tống Thượng Tiết đã trả lời rằng: “Bây giờ chúng ta đã đi vào phạm vi khoa học thì tôi xin được mạn phép nói về khoa học. Ông bèn giảng dạy lại môn hóa học, là môn học sở trường của ông, nhưng từ khi rời khỏi phòng thí nghiệm của trường học, ông chưa bao giờ nói đến nó! Tống Thượng Tiết đã dùng một ly nước lạnh và một khối nhỏ phèn chua. Ông bỏ phèn vào ly nước, khuấy đều, miếng phèn tan hết trong nước. Để chiếc ly trên lửa, nước bốc hơi và khối phèn trở lại hình dạng cũ nhưng trong và đẹp hơn trước kia nhiều. Người tín đồ Cơ-đốc sau khi chết một thời gian có thể rữa mục nhưng khi tiếng kèn trỗi lên báo hiệu ngày Chúa trở lại, họ sẽ sống lại giống y như nước phèn đã tan trong nước chỉ cần bốc hơi nước là kết tụ lại thành phèn nguyên chất. Con người còn có thể làm cho vật chất tan rã rồi kết tụ lại, huống chi là Thượng Đế. Chính là Đấng đã tạo dựng nên cõi càn khôn vũ trụ từ hư vô, chẳng nhẽ Ngài bất lực không làm cho con người đã rữa nát có thể sống lại hay sao?”, Kết quả cuộc truyền giảng tại Pattavia có chừng 450 người tin nhận Chúa. Tổ chức được 46 lớp học Thánh Kinh, những bệnh nhân có đức tin đã được chữa lành rất nhiều. Buổi truyền giảng bế mạc đặc biệt dành để cầu nguyện chữa bệnh, nhưng người đến tham dự trên 1.000. Có một bé gái người Hòa Lan có một thân thể quá mập, đôi chân lại yếu không thể bước đi được. Có 2 người đàn ông (mà 1 là Mục sư) đã khiêng cô bé này đến hội trường trước rồi bỏ đi về. Cả hội chúng ngạc nhiên và lo rằng cô bé này nếu không được chũa lành thì ai sẽ khiêng về? Sau khi được Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện, như thường lệ, ông bảo bệnh nhân hãy đi về, vì người quá đông, không thể cứ đứng đó được. Cô bé này cũng như mọi người khác đã được chữa lành đứng lên và tự bước đi một mình về nhà.
Hạ tuần tháng 3, vòng truyền giáo tại Java kết thúc và Tống Thượng Tiết trở về Thượng Hải.
CHƯƠNG 49
TRỞ LẠI THÁI LAN (MÙA HÈ 1939)
Công cuộc truyền giáo mùa hè năm ngoái tại Thái Lan đã để lại thành quả tốt đẹp giữa vòng người Hoa Kiều cũng như người Thái. Những người đã được Chúa thăm viếng rất nhớ Tống Thượng Tiết và đã có rất nhiều thư nhắc nhở ông sớm thực hiện lời hứa trở lại Thái Lan 1 lần nữa.
Ngày 18-5-1939, Tống Thượng Tiết từ Thượng Hải đến Tân-gia-ba dự lễ mãn khóa đầu tiên của Kim Liên Linh tu viện. Ông ban huấn từ cho các sinh viên tốt nghiệp. Sau đó tổ chức ngay 2 ngày truyền giảng đặc biệt nói chuyện với các đoàn viên trong Đoàn Truyền Giáo Phúc âm.
Sau đó ông sang Thái Lan, đến Bangkok ngày 25 tháng 5. Mục sư Giáo sĩ Maccord của hệ phái Trưởng lão đã tiếp đón và mời Tống Thượng Tiết về nhà cùng với Mục sư Thái Lan Bulmachittesan. Trong những bài giảng của lần viếng thăm này, Tống Thượng Tiết đã dựa vào Phúc âm Mác để làm nền tảng cho sự dạy dỗ chiều ngang. Ví dụ như khi giảng bài thứ nhất ông đã dùng đề mục “Báp-tem của Đức Thánh Linh”, ông lấy hình ảnh Giăng Báp-tít mặc áo bằng da lạc đà để nói lên tâm tình của Giăng, tự coi mình như một con lạc đà. Ông tiếp: “Lạc đà là một phương tiện chuyên chở rất hữu dụng trong sa mạc, lạc đà mỗi buổi sáng đã quỳ trước mặt chủ để mang tất cả những hành trang nặng nề. Cũng một thể ấy, chúng tôi làm việc cho Đức Chúa Trời cũng phải dậy thật sớm, đến trước mặt Chúa nhận lãnh tất cả những ý chỉ của Ngài để vác và gánh sứ mạng đi cho hết đoạn đường của ngày ấy. Mỗi buổi sáng tôi cũng đến cùng Chúa, xin Chúa cho biết những việc đáng phải làm, những lời đáng phải nói, không dám sai lệch những ý chỉ của Ngài. Tôi hoàn toàn chiếu theo mệnh lệnh của Chúa nên mỗi lần tôi truyền giảng có thể thuyết phục hàng trăm người đến cùng Chúa. Họ ăn năn và xưng nhận tội lỗi cùng Ngài và được Chúa Thánh Linh ban cho sự sanh lại. Những kết quả của việc làm này hoàn toàn ngoài toan tính của tôi, vì tôi chỉ thực hiện mệnh lệnh của Chúa. Nếu đem sức riêng và tài năng của tôi thì không thể thuyết phục một người nào đầu phục Chúa. Một người hối cãi trở về là khiến cho bao nhiêu thiên sứ trên trời đều reo vui, không phải là một việc dễ thực hiện!”
Trong chuyến truyền giáo Thái Lan lần này, Tống Thượng Tiết chẳng những truyền giảng cho người Hoa mà cũng truyền giảng cho người Thái tại Hội Thánh của họ. Người Thái có một ấn tượng rất tốt với Tống Thượng Tiết. Mục sư Chittesan đã từng nói rằng: “Tống Thượng Tiết ít nói chuyện, nhưng truyền giảng rất nhiều và nhiều nhất là cầu nguyện”. Chuyến truyền giáo này, ngoại trừ Bangkok, ông còn đến Chingmai, Nacong, Patong, Thombury, Lampan... Bất cứ đến nơi nào, công việc đầu tiên của ông vẫn là công kích tội lỗi, tiếp đến là nói đến sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Những người được Chúa thăm viếng, sau khi đã xưng nhận tội lỗi, hối cãi cùng Chúa thì họ rất vui mừng mà phục vụ Đức Chúa Trời, tranh nhau tham gia vào các tổ truyền Phúc âm. Họ cam kết cùng nhau mỗi tuần sẽ ra đi truyền bá Phúc âm 1 lần. Về sau tăng lên mỗi tuần lễ 2 tuần. Bất cứ tại đâu, để kết thúc cho chiến dịch truyền giảng là một buổi đặt tay cầu nguyện cho những người bị bệnh. Rất nhiều người đã được Chúa chữa lành. Trong một bản tường trình của một vị Mục sư Thái Lan: “Người mù được thấy, người què được đi, người câm nói được. Nhiều chứng bệnh nan y đều được Chúa chữa lành và quyền năng là một sự thật và được kéo dài lâu bền. Vì có quyền năng chữa bệnh, có năng lực truyền giảng nên ông đã có nhiều công với các Hội Thánh. Ông đã được nhiều người Hoa cũng như người Thái tôn sùng, nhưng ông không muốn cho ai tôn cao mình. Ông đã phát biểu trong một bài giảng rằng: “Anh chị em thân mến, anh chị em đừng tưởng tôi là một con người ngay lành, ngược lại tôi vốn là một kẻ trộm cướp, mà lại là hạng trộm cướp cừ khôi. Tôi đã từng đả kích, phê phán sở đoản của người khác, đã dối gạt, lừa đảo người khác. Khi đến nước Mỹ tôi là một thanh niên 19 tuổi, làm công gian lận cho chủ, làm ít khai nhiều, miệng của tôi là miệng dối gạt. Khi đi học những năm đầu, thành tích của tôi luôn luôn được 100/100. Nhưng về sau công việc nhiều, tôi đã mệt mỏi sa sút, nhưng vẫn muốn duy trì thành tích cao ấy nên đôi mắt tôi đã gian lận trong kỳ thi: Đôi mắt tôi là đôi mắt gian tham. Tôi là một sinh viên hóa học, mỗi lần thí nghiệm cần đến sự cân đo rất chính xác, nhưng vì tôi đã quá mệt mỏi nên tôi đã phải dùng đến xảo thuật của bàn tay tôi: Đôi tay tôi là đôi tay của kẻ trộm... Trong thâm tâm tôi nổi lên một niềm hận thù độc ác, tôi muốn mọi người đều chết chỉ một mình tôi sống thôi. Tôi cũng cho là tất cả mọi người đều xấu xa, chỉ một mình tôi là công chính! Việc học của tôi không ai có thể vượt qua được. Lòng dạ tôi chất chứa những xấu xa ghê tởm. Mọi người đều nhìn tôi như là một người thánh thiện, sự thật tôi đã nghiền ngẫm những dâm thư trong những canh khuya nửa đêm về sáng. Tôi lấy làm thích thú những đoạn tả về dâm ô, tôi đã gạch viết màu lên những đoạn dâm dục ấy... Tôi không có một tình yêu thương nào đối với người anh của tôi cùng sang du học tại Mỹ với tôi. Anh tôi đã phải nhờ vả vào tài năng của tôi để sống, nên tôi đã mắng mỏ, hành hạ bất cứ lúc nào. Những lúc tức giận tôi có ý muốn giết cả anh tôi nữa. Ôi con người xấu xa gian ác của tôi! Tôi là một tội nhân lớn nhất, đáng chết nhất. Ngày 11-2-1927, tôi đã rất đau khổ khi nghĩ đến con người gian ác của mình. Tôi đã quỳ trước mặt Chúa xưng nhận hết mọi lỗi lầm gian ác của mình trong 27 năm qua. Tôi đã đổ nước mắt để cầu xin, nước mắt đã thấm ướt cả gối. Tôi đã thức và cầu nguyện suốt đêm trong thống hối. Nửa đêm Chúa Giê-su đã hiện ra với tôi, nhỏ nhẹ nói với tôi rằng: “Con cái bé mọn của ta ơi, tội con đã được tha rồi, hãy nhìn vết đinh trên chân và trên tay của Ta. Ta đã chết vì tội lỗi của con, bây giờ con có thể an tâm. Từ đó tôi như đứa con hoang đàng trở về nhà Cha. Tôi đã được Chúa biến đổi thành một con người khác hẳn. Hôm nay tôi có thể đứng trước mặt quý vị để rao giảng Phúc âm, làm chứng mạnh dạn là Chúa có thể cứu một tội nhân lớn như tôi chắc chắn sẽ cứu được quý vị, bất kể tội lỗi quý vị lớn như thế nào. Quý vị chỉ cần chịu xưng nhận tội lỗi của mình và tin nhận ân sủng cứu rỗi kỳ diệu của Chúa Cứu Thế trên cây thập tự thì quý vị sẽ được tha thứ và ơn cứu rỗi tức thì!”
Vòng truyền giáo thứ hai của Tống Thượng Tiết tại Thái Lan kết thúc vào ngày 2-8. Kết quả của 2 vòng truyền giáo Thái Lan theo thống kê của hệ phái Trưởng lão từ năm 1915-1935: Số tín hữu từ 8.000 xuống còn 7.000 nhưng vì cuộc phục hưng do Tống Thượng Tiết con số lại tăng lên 9.000. Trong thời gian quân đội Nhật chiếm đóng Thái Lan, rất nhiều các nhà lãnh đạo Hội Thánh bị bắt bớ giam cầm, nhưng nhìn chung không có một hiện tượng suy thoái thuộc linh nào.
Năm 1940 khi Giáo sĩ Maccord trở về Mỹ, chiến tranh tại vùng Thái Bình Dương bùng nổ, Thái Lan bị quân đội Nhật chiếm đóng. Lúc bấy giờ có một bác sĩ người Thái đang nghiên cứu y khoa tại Baltimore, Hoa Kỳ. Giáo sĩ Maccord đã hỏi vị bác sĩ này rằng: “Theo như ông nghĩ thì Hội Thánh tại Thái Lan có thể duy trì trong cuộc chiến này không?”. Vị bác sĩ này đã trả lời: “Được, nhưng phải qui công cho Tiến sĩ Tống Thượng Tiết!”.
CHƯƠNG 50
LẠI DẾN JAVA (HẠ BÁN NIÊN 1939)
Hạ tuần tháng 8 năm 1939. Tống Thượng Tiết trở lại Java lần thứ hai. Trong vòng truyền giáo này, ông ghé Battavia trước tiên, cũng dùng nhà thờ của Hội Thánh Bồ Đào Nha làm nơi truyền giảng, số người tham dự cũng đông đảo như lần trước. Truyền giảng được vài hôm thì cả khu phố người Hoa cư ngụ đều như được khuấy động lên, không một ai là không đến nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm. Ngọn lửa phục hưng đã bùng lên, lá cờ thập tự được thấy ở mọi nơi. Tiếng hát ngợi khen Chúa của tín hữu nam nữ như vang động khắp nơi. Có người đã ví sánh hiện tượng này giống như hiện tượng cơn phục hưng tại xứ Wells.
Một nhà đại phú Trung Hoa cư ngụ tại khu Bogo là địa điểm nghỉ mát danh tiếng của thành phố Battavia, ông ta chưa từng biết Chúa là ai, nhưng lần này vì ngưỡng vọng đại danh của Tiến sĩ Tống Thượng Tiết nên ông nhờ một người bạn hướng dẫn đến để nghe giảng. Sau giờ giảng, vị đại phú này xin yết kiến Tống Thượng Tiết và đã dùng bao thơ đựng 1.000 đồng để làm lễ ra mắt. Nhưng Tống Thượng Tiết với ân tứ phân biệt, Chúa đã cho thấy tận đáy lòng của vị đại phú này, Tống Thượng Tiết nhận chiếc phong bì, quăng nó vào không trung và nói rằng: “Của ma quỉ!”... Những tờ giấy bạc từ trong phong bì bay tung tóe, những thính giả còn lại trong nhà thờ lấy làm rất kinh ngạc. Hành động của Tống Thượng Tiết cũng khiến vị đại phú kia sững sờ. Tống Thượng Tiết nói với “người nhà giàu” rằng: “Nếu ông không hối cãi ăn năn thì ông và tiền bạc của ông sẽ bị hủy diệt cùng một lúc!”
Sau Battavia, Tống Thượng Tiết đến thành phố Bogo, nhưng tại đây ông đã gặp một rắc rối không nhỏ. Văn phòng của sở di trú bắt Tống Thượng Tiết phải làm thêm thủ tục nhập cảnh, nên cuộc hành trình đã phải hoãn lại mấy hôm, không đến đúng như chương trình đã ấn định. Lợi dụng thời gian ấy, các tín hữu Hoa Kiều đã dựng một căn lều rất lớn vì nhà thờ quá nhỏ. Khi lều đã dựng xong, họ công bố ngày giờ truyền giảng của Tống Thượng Tiết. Người ta như nước thủy triều lên ào ạt khắp nơi dồn về, phía trên là thành phố Băng Đông, phía dưới là thành phố Battavia, thậm chí có những người ở các làng mạc xa xôi của miền Trung và thượng du cũng đổ xuống, phải căng lều lớn phủ cả sân quần vợt nữa mà vẫn không đủ chỗ cho người đến dự thính. Trong kỳ Đại hội này, cơn đau kinh niên của Tống Thượng Tiết lại bộc phát, 2 bên hông đau đớn dữ dội. Mỗi lần đứng trên bục giảng, 2 tay phải đỡ lấy thân mình cho giảm bớt trọng lượng của thân thể đè lên xương sống. Giảng xong 1 bài phải lấy nước nóng đắp lên xương sống để giảm bớt cơn đau. Tuy sức khỏe có phần yếu kém nhưng quyền năng của sự giảng dạy vẫn rất mạnh mẽ, Thánh Linh vẫn làm việc diệu kỳ. Mỗi lần giảng xong kêu gọi ăn năn tin nhận Chúa, số người hưởng ứng đi lên phía trước cũng như những lần truyền giảng trước. Đại hội kéo dài 1 tuần có chừng 900 người đã đầu phục Chúa Cứu Thế.
Khi hầu việc Chúa tại Bogo, một vị tín hữu đã hỏi Tống Thượng Tiết rằng: “Bí quyết nào đã giúp ông trở nên một nhà đại truyền giáo?”. Tống Thượng Tiết trả lời rằng: “Phải cẩn thận về thiên tài, phải dè giữ với phái nữ, phải vâng phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, và phải biết rằng Chúa đã kêu gọi thì Chúa sẽ mở đường!”
Rời thành phố nghỉ mát thanh lịch Bogo, Tống Thượng Tiết lần lượt đến các thành phố Chiliwan, Sabolom, Machilan, Bololargio… Sinh hoạt ở những nơi này rất phồn thịnh, dân cư đông đúc. Sau đó các Hội Thánh liên hiệp tổ chức Đại hội bồi linh và truyền giảng tại thành phố Surabagia. Tất cả những công tác chuẩn bị đều do một tín hữu, chủ nhân của một cơ xưởng, phụ trách. Ban tổ chức quyết định chọn một khoảng đất trống cạnh 1 ngôi đền Hồi Giáo để dựng lên một căn lều có thể chứa được 4.000 người. Chiến dịch dự định kéo dài 10 ngày. Mục tiêu chính là huấn luyện cho 500 đoàn viên của các Đoàn Truyền Giáo Phúc âm. Ông đến thành phố này vào ngày 18-9 và bắt đầu giảng dạy vào ngày hôm sau. Ban ngày chú trọng đến việc bồi linh, thính giả là những đoàn viên các Đoàn Truyền Giáo từ đảo Java cũng như các nơi khác đến tham dự. Ban đêm đặc biệt truyền giảng Phúc âm, tín hữu cũng như người chưa biết Chúa đến tham dự rất đông. Các báo chí Trung Hoa viết bài về chiến dịch này rất nhiều, khiến cho người đến tham dự ngày càng đông hơn. Cả khu phố do người Hoa cư ngụ đã được khuấy động lên. Sứ điệp của ông như thường lệ chủ yếu là đả kích tội lỗi. Sau mỗi buổi truyền giảng, ông hỏi những người đã lên đứng trước tòa giảng để đầu phục Chúa: “Ai đã từng ăn cắp vật dụng của người khác? Những ai đã từng lừa gạt người chủ đã mướn mình? Quý vị có công khai thừa nhận tội lỗi của mình không?”. Những người quỳ gối đó đã lần lượt đưa tay lên và ông đã cầu nguyện cho họ. Đêm cuối cùng, ông dùng Lu-ca đoạn 21 với đề tài “Chúa Giê-su tái lâm”. Ông đã yêu cầu thính giả: (1) Hãy có thái độ như người đàn bà góa, dâng hết điều mình có; (2) Phải nhận thức được rằng đền thờ ở thành Giê-ru-sa-lem đã được xây cất bằng vật liệu quí giá, trong đó lại chôn giấu nhiều châu báu. Nhưng 70 năm sau, khi binh lính La-mã đến, vì muốn tìm kiếm châu báu nên đã đập phá đền thờ, đến nỗi không còn một hòn đá nào nằm trên hòn đá nào. Họ sang bằng bình địa, để ứng nghiệm Lời Chúa đã nói trước; (3) Phải phân biệt được những Cơ-đốc nhân giả, vì có nhiều người mạo danh Chúa, tự xưng là Đấng Cứu Thế, trong những ngày sau rốt chắc chắn sẽ có nhiều Christ giả, tiên tri giả, giáo sư giả; (4) Phải biết rõ hoàn cảnh của mình, quý vị sẽ chứng kiến chiến tranh và nhiều thiên tai xảy đến nhưng đừng ngạc nhiên, vì những việc này phải xảy ra; (5) Sẽ nhìn thấy sự bắt bớ lớn; (6) Sẽ nhìn thấy một cuộc đảo lộn toàn thế giới, nhất là những tin tức chiến sự. Tống Thượng Tiết chẳng những đã trưng dẫn hùng hồn những dự ngôn trong Thánh Kinh chắc chắn sẽ được ứng nghiệm, nhưng cũng đưa ra những dự đoán như thành phố Thượng Hải và những vùng phụ cận. Phía Bắc Thượng Hài có nhiều cao ốc, phía Nam những công trình xây cất vững chãi, xi-măng cốt sắt, những nhà lầu chọc trời. Người ta đã hao tốn tiền bạc công sức mới xây cất lên được như vậy nhưng chỉ cần 1 đêm bị oanh tạc và pháo kích, tất cả sẽ trở thành bình địa. Bây giờ quý vị đến Thượng Hải sẽ không còn thấy những công trình kiến trúc đẹp mắt ấy nữa, ngoại trừ vùng Tô Giới. Thượng Hải đã trở thành tro bụi. Vật chất có thể bị Sa-tan hủy phá và trên thực tế, vật chất không có một chân giá trị nào. Những chiếc đàn dương cầm hạng tốt trị giá có đến gần 3.000 đồng, nhưng những tên Hán gian tại Hàng Châu đã bán những chiếc đàn dương cầm họ cướp giật được chỉ vài chục đồng, những chiếc cúp bằng bạc quý giá trong những trường đại học, trước kia bị trộm đã phải chuộc lại mấy lần nhưng nay vào tay kẻ gian chỉ bán lại vài ba đồng bạc.
Sau buổi nói chuyện này thì không bao lâu sau thì Trân Châu Cảng bị oanh kích, quân đội Nhật chiếm đóng đa số các quốc gia trong vùng Đông Nam Á. Nhiều người là nạn nhân của chiến tranh, nhớ lại lời cảnh cáo của Tống Thượng Tiết… bàng hoàng thức tỉnh.
Ngày bế mạc Đại hội, như thường lệ, Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện cho những người bệnh. Những người xin chữa bệnh cần phải được ghi danh. Tất cả những người mù, điếc, câm và nhiều bệnh nan y khác đã đến ghi danh, ông đã nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su mà cầu nguyện chữa lành cho họ. Trong những chiến dịch truyền giảng của Tống Thượng Tiết, ông thường dùng ngày bế mạc làm ngày cầu nguyện chữa bệnh, ông làm như vậy để tránh tình trạng những người chỉ vì thân thể của mình bệnh hoạn mà đến với Chúa, mà không chú tâm vào sự cứu chuộc về phần tâm linh.
Kết quả của kỳ Đại hội tại thành phố này được ghi nhận như sau: bán ra 5.000 quyển Thánh Kinh, những quyển Thánh Kinh vần Hán văn hay Mã văn đều bán rất nhanh chóng, nên phải đặt mua thêm tại thành phố Battavia. Những người đến dự nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm đông không đếm xuể. Các Hội Thánh đều thấy rằng nhà thờ của mình thật bé nhỏ so với số tín hữu gia tăng nên Hội Thánh nào cũng nghĩ đến việc mở rộng và cất thêm phòng nhóm họp. Đồng thời nhu cầu người chăn bầy cũng rất cấp bách nên phải tìm đủ mọi cách để đáp ứng nhu cầu.
Ngày 30-9, Tống Thượng Tiết lên tàu tại bến cảng Subagia để đến thành phố Mancaxe thuộc đảo Silipat. Hàng trăm tín hữu đến bến cảng tiễn đưa Tống Thượng Tiết. Họ hát những bài Thánh ca để tỏ lòng quyến luyến lúc tạm biệt.
Sau chuyến truyền giảng tại thành phố Mancaxe, Tống Thượng Tiết chuyển qua các quần đảo Malaca để tổ chức một chiến dịch 1 tháng. Đến sáng ngày 13-11, Tống Thượng Tiết an bình trở lại Tân-gia-ba. Những tín đồ nói tiếng Phước Kiến thuộc các Hội Thánh Phước Linh Đường, Châu Quang Đường và Thiên Đạo Đường liên hiệp nhau mời ông đến giảng cho Đại hội từ ngày 13 đến 19 tại nhà thờ Phước Linh Đường. Thành lập được thêm 21 tổ truyền giáo mới. Sau đó, ông đến những vùng lân cận, mỗi nơi tổ chức truyền giảng trong vòng 1 tuần. Tống Thượng Tiết lên tàu tại Tân-gia-ba để về Thượng Hải. Những tín hữu ra bến cảng tiễn đưa ông đều tỏ ý mong muốn rằng ông sẽ trở lại Tân-gia-ba vào năm 1940. Ông đã nhận lời, nhưng lời hứa này đã chẳng bao giờ thực hiện!
CHƯƠNG 51
SẮP LÌA ĐỜI (1940-1941)
I. THƯỢNG HẢI
Ngày 18-1-1940, Tống Thượng Tiết trở về Thượng Hải với một cơ thể bệnh hoạn, ốm yếu. Ông vốn không phải là một người khỏe mạnh, lại thiếu được chăm sóc. Mỗi lần giảng dạy ông đều mang hết tâm lực, mồ hôi, nước mắt ra mà phục vụ. Ông đã “liều mình” hầu việc Chúa như thế trong suốt 15 năm, và bây giờ đã gần tới giai đoạn “xong cuộc chạy”. Năm xưa khi cuộc sống tâm linh vừa được “làm mới lại”, Chúa đã khởi thị cho ông biết, ông có 15 năm để phục vụ Ngài, tính ra thì bây giờ là giai đoạn cuối.
Lúc ông còn du học tại Hoa Kỳ thì cũng đã qua một lần giải phẫu vì bịnh trĩ, nhưng vì tài chánh eo hẹp, ông đã phải xuất việc quá sớm (xin xem lại chương 12), vết thương chưa khỏi hẳn. Lại nửa khi phục vụ trong Đoàn Truyền Giáo lưu động Bê-tên, những bạn đồng công như Mục sư Kế Chí Văn.. đều khuyên ông nên vào lại bệnh viện Bê-tên để trị liệu. Bệnh viện này và Đoàn Truyền Giáo đều trực thuộc 1 tổ chức, Bê-tên, các bác sĩ của bệnh viện cũng là những người đồng công với Đoàn Truyền Giáo. Nhưng Tống Thượng Tiết một mực khước từ, cố gắng chịu đựng. Khi nghỉ ngơi ở nhà tại Thượng Hải cũng không nghỉ ngơi cho đúng mức, dường như không bao giờ ông tự lo nghĩ cho bản thân mình. Những buổi sáng cầu nguyện, ông thường mời bạn bè đến nhà giảng giải Kinh Thánh cho họ và cùng họ cầu nguyện. Tống Thượng Tiết thường tâm sự: “Trong khi học Kinh Thánh và cầu nguyện, những cơn đau đớn của tôi giảm xuống rất nhiều, ông tiếp: “Chúa dùng những cơn đau đớn để luyện, để hoàn chỉnh những thiếu sót như tánh tình nóng nảy của tôi...” Bạn bè của Tống Thượng Tiết ai cũng phải thừa nhận là tánh tình của tiên sinh thay đổi rất nhiều. Ngày xưa ông không bao giờ chịu theo tập quán của Hưng Hóa, khi có một bạn thân đến nhà dùng cơm, chủ nhà phải ra hầu khách, nhưng Tống Thượng Tiết đã biết thuận phục theo tập tục của quê hương, yên lặng để các bà phục vụ.
Thường ngày Tống Thượng Tiết đọc 11 đoạn Thánh Kinh, và ông dành rất nhiều thì giờ cho việc cầu nguyện, viết nhật ký tâm linh. Ông rất chuyên cần viết nhật ký, ông hầu như chưa bao giờ bỏ qua một ngày nào. Nhật ký của ông là một tài liệu rất quý báu về cuộc đời Tống Thượng Tiết, nhưng tiếc thay, chính tôi – tác giả viết quyển sách này – cũng chưa được hân hạnh được đọc tập nhật ký tâm linh đó! Lắm khi vì quá nhọc mệt vì công việc hàng ngày, ông đã đọc và nhờ người em trai ghi chép hộ. Nhưng vì người em này viết quá chậm nên Tống Thượng Tiết đã phải nhờ một sinh viên thần học làm giúp công việc này. Những thì giờ rãnh rỗi, Tống Thượng Tiết trả lời thư từ cũng như những nan đề của tín hữu hay thính giả, trong và ngoài nước.
Mục sư Vương Minh Đạo tại Bắc Kinh được tin Tống Thượng Tiết lâm trọng bệnh. Lúc ấy có bà Vương Minh Đạo và bà Liêu Cảnh Văn cũng đang dưỡng bệnh tại Thượng Hải. Bà Mục sư Vương Minh Đạo muốn đến thăm Tống Thượng Tiết (lúc ấy đang dưỡng bệnh tại nhà mẹ mình, nhưng bà mẹ đã khuyên chưa nên đến thăm Tống Thượng Tiết vội, vì chính bà vẫn còn đang đau chưa khỏi hẳn). Nhưng bà Mục sư Vương vì quá nóng lòng nên đã xin mẹ cho đến thăm Tống Thượng Tiết. Bà đã chứng kiến sự đớn đau của Tống Thượng Tiết thì biết rằng ông đã dứt khoát không chịu nhờ cậy vào thầy thuốc ở đời này. Ông nghĩ rằng, chính mình đã nhân danh Chúa Giê-su chữa bệnh cho biết bao nhiêu người và họ đều được chữa lành. Nay đến phiên mình chẳng nhẽ lại đi đến thầy thuốc của đời này mà không chịu cầu xin quyền năng của Chúa Cứu Thế Giê-su? Làm như vậy chẳng những chứng tỏ mình kém đức tin mà lại ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của biết bao nhiêu người khác, danh Chúa không được hiển vinh. Biết như vậy nên không ai dám khuyên Tống Thượng Tiết đến bác sĩ. Bà Mục sư Vương thấy tình hình không ổn, bà đã dùng Phúc âm Ma-thi-ơ đoạn 9 câu 12: “Vì người bệnh mới cần y sĩ, chứ người khỏe mạnh thì không” để khuyên Tống Thượng Tiết nên vào bệnh viện chữa trị . Cuối cùng ông đã thuận phục chịu nhập viện Đại Công tại Thượng Hải. Bác sĩ Trương chữa trị cho Tống Thượng Tiết là một tín hữu rất yêu mến Chúa, nhưng sức khỏe của Tống Thượng Tiết quá yếu nên phải truyền máu cho lại sức mới có thể giải phẫu được. Cuộc giải phẫu kéo dài hơn 3 giờ đồng hồ. Những mảng thịt thối rữa, cắt bỏ đi cũng đến 3 chậu nhỏ!! Khi Tống Thượng Tiết đang ở trong phòng mổ, nhiều tôi tớ con cái Chúa đã tha thiết khẩn nguyện cho ông. Ông đã bị bịnh trĩ rất nặng, thời gian hậu giải phẫu ông cần phải nghỉ ngơi và điều trị dài hạn tại bệnh viện.
Thời gian Tống Thượng Tiết nằm bệnh viện, có 2 đoàn viên Đoàn Truyền Giáo Hàng Châu đến chăm sóc, nuôi dưỡng ông. Một là cô họ Trương và một thanh niên tên Chu Duy Hinh. Chu Duy Hinh đã nhiều lần cầu nguyện rằng: “Chúa ôi, nếu Ngài đẹp lòng, xin Chúa rước con về trước còn ông Tống Thượng Tiết xin Ngài để lại”.
Từ phòng mổ khiêng ra, Tống Thượng Tiết vẫn ở trong trạng thái mê man, thần sắc mệt mỏi xanh xao. Nhiều ngày sau, bạn bè vào thăm vẫn thấy ông nằm đau đớn, rên siết trên giường bệnh. Tĩnh dưỡng 1 tháng trong bệnh viện, sức khỏe hồi phục được đôi chút và phải xuất viện về nhà riêng. Bà Mục sư Vương Minh Đạo đến thăm đã nghe ông hát như một trẻ thơ bài đoản ca phổ nhạc theo lời của câu Kinh Thánh: “Vì người bệnh mới cần y sĩ, chứ người khỏe mạnh thì không cần!”. Tống Thượng Tiết về nhà đúng lúc khánh thành nhà thờ Hoài Ân Đường tại Thượng Hải. Ban tổ chức Đại hội phấn hưng và truyền giảng nghĩ rằng cho dẫu với tiếng tăm của Tống Thượng Tiết cũng không sao thu hút đủ thính giả chiếm hết chỗ vì nhà thờ quá rộng. Họ đã nhiều lần khẩn khoản mời ông đến. Ông nghĩ rằng khi sức khỏe trở lại phần nào thì cũng có thể tiếp tục phục vụ Chúa được nên đã nhận lời mời. Người đến dự rất đông nhưng trong nhà thờ rất ồn ào và mất trật tự. Ông từ từ tiến lên bục giảng, lấy tay đập mạnh xuống bàn, lớn tiếng hỏi hội chúng rằng: “Đây là thánh đường hay là hí viện?”. Hội chúng lúc ấy mới yên lặng và trật tự trở lại. Đề tài giảng dạy hôm ấy là “Ngày Chúa trở lại thình lình như kẻ trộm đến trong ban đêm!”. Đến gần cuối bài, ông cảm thấy mệt quá nên phải ngồi xuống để tiếp tục cho xong bài giảng. Kết quả có hơn 90 người tin nhận Chúa. Về đến nhà, Tống Thượng Tiết liền phải nằm vật xuống vì thấy trở lại mệt mỏi và đau đớn. Ông than thở với những người chung quanh: “Không ngờ tôi bây giờ đã thành người vô dụng”.
Ngày 15-11, vết mổ của Tống Thượng Tiết bị làm độc, sưng tấy lên thật đau đớn, cơ thể lại càng suy yếu. Các bác sĩ cũng như bạn bè ai cũng khuyên ông nên đến trị liệu tại bệnh viện Hiệp Hòa thuộc Bắc Kinh. Ông đã nghe lời và ngày 4-12, một mình đi lên Bắc Kinh. Lúc chia tay, ông dặn dò người nhà rằng: “Xưa nay tôi vẫn cầu nguyện Chúa chữa bệnh cho người khác, bây giờ đến lượt những người được Chúa chữa lành ấy chắc cũng vì cơn bệnh của tôi mà cầu thay cho tôi.”
II. TẠI BẮC KINH
Sau khi vào bệnh viện Hiệp Hòa định bệnh, kết quả cho biết là Tống Thượng Tiết vừa bị ung thư vừa bị lao phổi. Ông phải giải phẩu lần thứ nhất vào ngày 14-2-1940, lần thứ nhì ngày 28-1-1941, và phải nằm trong bệnh viện 6 tháng để điều trị. Trong thời gian đó thì con trai của Giáo sĩ C.J.Litton Burg hội China Island Mission cũng đang điều trị tại bệnh viện đó, ông bà Giáo sĩ này rất năng đến bệnh viện. Qua sự giới thiệu của Mục sư Vương Minh Đạo, ông bà quen với Tống Thượng Tiết và đôi bên nhiều lần đàm đạo cùng nhau. Tống Thượng Tiết chia sẻ là cơn bệnh của ông là một sự dạy dỗ của Chúa, Ngài muốn ông phải sửa đổi tính xấu của mình. Về điều này thì Giáo sĩ Litton Burg đã nghe thấy từ lâu, nay mặt gặp mặt thì con người trước mặt Giáo sĩ là một con người đầy tình thương, đã quá ôm đồm công việc đến nỗi đã không nghĩ gì đến thân mình. Còn về tánh nóng nảy và coi thường người khác như lời người ta đồn đãi thì bây giờ chẳng còn một vết tích nào trong con người đối diện này.
Những lần giải phẫu này tuy đã thành công, nhưng đã quá trễ. Sáu tháng trước, Tống Thượng Tiết cố tình trì hoãn nhiều lần vì những chuyến truyền giáo... Cơn bệnh đã trở nên quá trầm trọng nên tình trạng sức khỏe của Tống Thượng Tiết không được khả quan lắm.
Tống Thượng Tiết xuất viện ngày 7 tháng 7, và đã dọn về phía Tây cảu Bắc Kinh, mướn 1 phòng trong khu “cây thông”, đây là một danh lam thắng cảnh. Tĩnh dưỡng chưa được bao lâu thì ông nhận được hung tin: Giô-suê, con trai mình bị viêm dạ dày đã sớm lìa đời. Trong hoàn cảnh đau đớn thân xác này lại còn chịu đựng thêm điều đau thương lòng quặn thắt. Với người khác chắc bình thường đã phải có thái độ tra vấn, nghi ngờ lớn, nhưng Tống Thượng Tiết đã biết Chúa thật là sâu nhiệm nên ông không đến nỗi ưu sầu thái quá. Bà Tống Thượng Tiết sau đó đã đưa 3 con gái từ Thượng Hải lên Bắc Kinh ở chung với chồng để tiện bề chăm sóc. Sức khỏe của Tống Thượng Tiết cũng dần dần hồi phục. Ông bắt đầu lại bằng những công việc nhẹ không hao tốn sinh lực nhiều như trò chuyện cùng những người thân đến viếng thăm... Trong thời gian dưỡng bệnh này, ông tự học Kinh Thánh theo phương pháp đối chiếu, đọc Tân Cựu Ước 3 đoạn, một đoạn trong sách Khải Thị để tìm biết sự tương quan sâu sắc của Lời Chúa. Ông cũng mời những tín hữu và những người bạn đồng công cùng học Kinh Thánh theo lối đối chiếu này. Cũng trong thời gian này, Tống Thượng Tiết soạn được 15 bài đoản ca, và viết những bức thư cho các Đoàn Truyền Giáo Phúc âm trong cũng như ngoài nước kêu gọi sự cầu nguyện phục hưng.
Mùa thu năm ấy, sức khỏe của Tống Thượng Tiết có phần khả quan hơn, ông có thể đi bách bộ quanh trong vùng “cây thông”. Chốn này ngày xưa chỉ dành riêng cho các vua chúa và gia đình hoàng tộc đến nghỉ hè và săn bắn. Nơi đây có những cảnh trí thật là tuyệt sắc và khí hậu hiền hòa mát mẻ. Người đầy tớ trung thành của Chúa ở đây tạm nghỉ ngơi để thưởng thức những danh lam thắng cảnh thật là thích hợp cho sức khỏe của Tống Thượng Tiết. Trong khu Hương Sơn có một vườn hoa Tĩnh Nghi là nơi mà Tống Thượng Tiết thường chống gậy đến thưởng ngoạn và ngơi nghỉ. Vừa thấy hoa, Tống Thượng Tiết đã dùng hoa để làm thí dụ để giảng giải chân lý Kinh Thánh cho những người đồng hành thưởng lãm cảnh đẹp trong huê viên. Ông thường lên ngọn đồi gần đó để đọc Kinh Thánh và suy gẫm Lời Chúa. Cũng năm ấy, mùa đông, Tống Thượng Tiết được Chúa cho một khải tượng và ông bắt đầu dùng những ngụ ngôn trong Phúc âm để giảng giải cho người nhà và cho các cộng sự viên nghe.
Sau đây là một vài lời của bà Tống Thượng Tiết thuật lại: “Mỗi ngày ông vẫn đều đặn ăn nuốt Lời Chúa, và suy gẫm Lời ấy. Một mặt ông hồi tưởng lại những ngày qua, kiểm điểm lại những việc làm trong quá khứ, một mặt khích lệ vợ con siêng năng học Lời Chúa. Hằng đêm chúng tôi đều có gia đình lễ bái. Ngày ấy các con chúng tôi còn trong tuổi ấu thơ nên chúng không thấy thích thú với lối giảng kinh và giải kinh cho người lớn. Vì thế nên ông đã kể cho chúng tôi mỗi ngày một sự tích trong Kinh Thánh. Những mẩu chuyện nghe rất đơn sơ, nhưng đều tiềm ẩn những giáo lý rất căn bản, và rất quan trọng cho tăng trưởng tâm linh. Phương pháp giảng dạy này không nhất thiết theo thứ tự trong Kinh Thánh. Khi được cảm động và Thánh Linh thôi thúc giảng sách nào thì ông giảng sách đó, vì vậy ông không giảng theo tài liệu đã soạn sẵn, mà nhờ Thánh Linh soi dẫn trong khi cầu nguyện. Nhiều khi chúng tôi không biết ông đã bắt đầu từ đâu và kết thúc lúc nào, ông thường nói rằng: “Giống như gió thổi, gió thổi đến đâu chúng ta theo đến đó, chúng ta không giảng dạy tự ý mình”. Khi ông giảng dạy, có những cộng sự viên ghi chép, về sau sắp xếp lại thành những truyện tích liên tục trong Kinh Thánh. Nội dung chú trọng đến chân lý của Hội Thánh, mục đích là xuất bản thành một tập sách để giúp đỡ cho những người hầu việc Chúa. Những đầy tớ Chúa phải biết làm cách nào để thiết lập Hội Thánh, làm thế nào cho Hội Thánh mang ý hướng là gia đình của Chúa. Đồng thời ông cũng đưa ra những mẫu mực của người đầy tớ Đức Chúa Trời... Người đầy tớ của Đức Chúa Trời phải biết làm sao trang bị phẩm chất thuộc linh, quán triệt những chân lý về sự chết con người cũ, sự sống con người tái sanh, nên thánh, và kinh nghiệm về những chân lý ấy hầu có thể đáp ứng được những nhu cầu của Hội Thánh Trung Hoa và hoàn thành kế hoạch đời đời của Đức Chúa Trời...”. Bà Tống Thượng Tiết đã biết lời tựa cho tập sách trên như sau: “Lời Chúa đã thấm nhuần vào đời sống của Tống Thượng Tiết, ông đã phối hợp những gì ông lãnh hội được từ trong Thánh Kinh cộng với những việc làm và kinh nghiệm thuộc linh cá nhân ông trong mười mấy năm qua. Đó là căn nguyên của tập “Những Mẩu Chuyện Tích Kinh Thánh”.
Tập sách này với bút pháp ký thuật nên đã thu hút được sự thích thú của độc giả muốn tìm hiểu và học hỏi Thánh Kinh, đồng thời cũng giúp để giải đáp những thắc mắc về quá trình thuộc linh của chính tác giả. Tống Thượng Tiết đã tự thuật rằng: “Sự bại hoại của tôi thật là đáng ghét nên tôi càng phải nhờ quyền năng của thập tự giá để đóng đinh con người cũ, cố gắng vượt qua những khó khăn để cùng Chúa bước vào sự đắc thắng của Đấng Cứu Thế. Trong những mẩu chuyện này đều đi thẳng vào trọng điểm để người đọc nhìn được Chúa Cứu Thế để làm vui lòng Ngài. Có như vậy mới mong trở nên một con người hoàn toàn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Tập sách ngụ ngôn và ẩn dụ của Thánh Kinh này mãi đến tháng 7-1951 mới được xuất bản. Nội dung của tập truyện đầy dẫy những linh ý dùng để thức tỉnh và được viết bằng một lối văn dung dị nhẹ nhàng. Rất tiếc đây là sự ghi chép lại những lời khẩu thuật của Tống Thượng Tiết chứ không phải do chính tay ông viết nên. Chính ông cũng chưa có thì giờ sửa chữa lại, nếu không thì tác phẩm này đã trở thành một danh tác như Pilgrim Progress.
Năm 1942, sức khỏe của Tống Thượng Tiết lại có phần khả quan hơn, nên gia đình đã dành riêng cho ông một phòng nhỏ gọi là Ân điển viện. Đặc biệt để cho ông học Kinh Thánh bất định kỳ hoặc đàm đạo với bạn bè thân thiết trong Chúa như Vương Minh Đạo, Uông Triệu Tường, Dương Thiệu Đường, Cổ Nhân Ân. Ông Cổ vốn là một tài tử điện ảnh nên có một cuộc sống vô cùng phóng đảng lãng mạn. Khi nghe truyền giảng ông Cổ đã ăn năn đầu phục Chúa, trở nên một trong những bông trái tốt đẹp của Tống Thượng Tiết. Lúc bấy giờ, Cổ đang giúp cho Tống Thượng Tiết thực hiện công tác truyền giảng tại Bắc Kinh, ông đã mời tất cả người nhà lên Bắc Kinh. Cả gia đình họ Cổ đang trên đường từ Hồng Kông lên Bắc Kinh thì đụng phải thủy lôi của quân đội Nhật. Tàu chìm và cả gia đình đều mất tích giữa biển khơi. Cổ Nhân Ẩn vô cùng đau xót. Biết được câu chuyện thương tâm này, thì Tống Thượng Tiết đề nghị với bạn: “Bây giờ bạn cùng tôi có thể song ca không?”. Người bạn họ Cổ chưa hiểu ý của Tống Thượng Tiết nên thắc mắc: “Tại sao lại phải song ca, tâm trạng này mà còn hát với xướng nỗi gì?”. Tống Thượng Tiết điềm nhiên trả lời: “Chúng ta cùng có thể hát bài ca của Gióp. Bạn hát chương thứ nhất còn tôi hát chương thứ hai. Bạn mất hết người thân, tôi rửa nát thi thể”.
Trong Ân điển viện, Tống Thượng Tiết tiếp tục viết. Theo bà Tống Thượng Tiết sau thuật lại thì những công trình của Tống Thượng Tiết trong giai đoạn này là những bài “Bồi Dưỡng Tâm Linh”, “Truyện Tích Kinh Thánh’” và những “Tự Truyện”. Ba thể loại này đều do những khải thị Chúa ban cho trong những lúc ông đớn đau và khó khăn trên gường bệnh.
Tình hình chiến sự trên thế giới bây giờ là quân đội Đức đang tấn công vào Nga. Máy bay Nhật oanh tạc trên Trân Châu Cảng và ngọn lửa chiến tranh ngày càng lan rộng... Hồng Kông, Tân-gia-ba, Mã-lai-Á, Nam Dương, Thái Lan, Việt Nam, Miến Điện... đều là những nơi mà Tống Thượng Tiết đã từng ghé qua trên những chuyến truyền giảng. Ảnh hưởng chiến tranh càng ngày càng sâu đậm, nhiên vật liệu ngày càng thiếu hụt, tiếp theo là những biến chuyển chính trị tại Trung Quốc. Vì thế, hy vọng những tác phẩm của Tống Thượng Tiết được xuất bản thật xa vời! Quân đội Nhật coi Cơ-đốc giáo là một liên quan mật thiết với các thế lực Tây phương và Hoa Kỳ nên có thái độ hoài nghi thù địch với tín đồ Cơ-đốc. Các Hội Thánh trên khắp vùng Đông Nam Á đều bị quân đội Nhật tàn hại. Tống Thượng Tiết tưởng nhớ những người bạn cố tri cũng như những người bạn sơ giao. Gánh nặng trong lòng ông ngày càng nặng nề, nên bệnh tình của ông đột phá rất nguy kịch. Lúc bấy giờ, bệnh viện Hiệp Hòa tại Bắc Kinh đã bị quân đội Nhật chiếm đóng và chỉ phục vụ cho những sĩ quan cao cấp cho những sĩ quan cao cấp trong quân đội Nhật-Hoa. Do đó, Tống Thượng Tiết phải chuyển đến điều trị tại Thiên Tân. Ông lại phải qua cơn giải phẫu thứ ba ngày 27-3-1943 và điều trị trong 3 tháng. Sau đó, ông trở lại Bắc Kinh, ghé thăm Vương Minh Đạo 1 đêm, ngày hôm sau trở về Hương Sơn. Lúc bấy giờ ông không còn đủ sức để giảng nữa, nhưng có thể vẫn tiếp tục đàm đạo với những người đến thăm viếng. Tháng 6-1944, bệnh tình đã đến hồi nguy kịch, người nhà đã phải đưa ông vào bệnh viện Đức Quốc tại Bắc Kinh vào ngày 12-6 để chịu giải phẫu lần thứ tư. Ngày 16, Vương Minh Đạo cùng với các anh em quốc tịch Đức với tình yêu thương đến thăm viếng và chăm sóc rất tận tình. Tống Thượng Tiết xuất viện ngày 1-7, về đến Hương Sơn thì hơi thở đã quá yếu ớt và những cơn đau kéo đến liên miên, nhưng Tống Thượng Tiết vẫn liên tục cầu nguyện. Có thể đây là lời nhắn nhủ sau cùng của Tống Thượng Tiết gửi đến Hội Thánh:
“Sau này tất cả mọi công việc chúng ta có thể làm được chỉ là cầu nguyện!”. Câu nói này đã trở thành phương châm của người Cơ-đốc Trung Hoa trong vùng Đông Nam Á khi những hoạt động truyền giáo bị bắt buộc đình chỉ.
Vào thượng tuần tháng 8, bệnh tình của Tống Thượng Tiết đã đến giai đoạn vô cùng nghiêm trọng. Thạch Thiên Dân từ Hương Sơn nhờ người mang một bức thư đến cho Mục sư Vương Minh Đạo. Vương Minh Đạo nhận được thư vào đêm 16, định sáng ngày 17 lên gặp Tống Thượng Tiết, nhưng vì công việc đa đoan nên phải hoãn lại 1 ngày, và sáng ngày 18-8, Vương Minh Đạo đã đạp xe lên Hương Sơn. Vì đường xa đến 40 dặm, qua khỏi trưa Vương Minh Đạo mới đến thì đã quá trễ, Tống Thượng Tiết đã lìa đời vào bình minh hôm đó. Sáng sớm 16-8 là những giây phút cuối cùng, Tống Thượng Tiết đã nói cùng vợ rằng: “Đức Chúa Trời đã chỉ thị cho tôi phải đi về!”. Đêm hôm ấy ông bị hôn mê, song ngày 17, trở lại tỉnh táo, ông hát nho nhỏ: “Thập tự giá sẽ mãi mãi là vinh diệu cho chính tôi.” và những bài thánh ca tương tự. Sau đó, Tống Thượng Tiết dương như trải qua một cơn đau đớn tột độ rồi đi vào trong bình an và vui mừng lớn. Tống Thượng Tiết dặn dò gia đình: “Con gái trưởng Tống Thiên Anh, sau này sẽ làm nữ truyền đạo vùng Đông Bắc Trung Hoa. Con gái thứ Tống Thiên Châu sẽ làm nữ truyền đạo vùng Đông Nam Á. Con gái thứ ba Tống Thiên Quyền sẽ làm truyền đạo tự do ở trong toàn quốc Trung Hoa!”. Trước kia, ông đã từng mơ ước: “Nếu tôi có 100 người con, tôi đều mong muốn chúng tất cả là những người đi truyền bá Phúc âm. Lời nói sau cùng của Tống Thượng Tiết với vợ vào lúc nửa đêm: “Đừng sợ, vì Chúa Giê-su đang đứng trước cửa”.
Tống Thượng Tiết đã được Chúa rước đi vào lúc 7 giờ 7 phút sáng ngày 18-8-1944.
Sau này, bà Tống Thượng Tiết đã ghi lại đoạn đường cuối cuộc chạy đua của Tống Thượng Tiết như sau: “Ngày 2-7-1943, Tống Thượng Tiết, tôi tớ Chúa trải qua lần giải phẫu thứ tư trong bệnh viện Đức Quốc tại Bắc Kinh. Sau khi dưỡng thương trở về Hương Sơn, vết mổ bệnh trĩ sâu và dài là quả đấm quyết định vào sức khỏe của ông. Nhà tôi đau đớn đến không thể trở mình được. Trong khi nhà tôi lâm trọng bệnh thì nhiều chi thể của Chúa thuộc đủ mọi thành phần: bác sĩ, y tá... cũng như những đồng lao ngày trước đến chăm sóc, thăm viếng, tỏ rõ tình yêu thập giá của Chúa Cứu Thế. Nhà tôi thường nói rằng: “Tuy thể xác của tôi thối rửa, nhưng xin cho miệng tôi không hư không thối để tôi có thể cầu nguyện với Chúa được”. Đây quả là một lời khẩn nguyện đầy nước mắt và máu. Đến giây phút lâm chung, nhà tôi nói với tôi rằng: “Đừng chuẩn bị cho anh một quan tài đắt tiền, đừng lập mộ bia, lăng tẩm đồ sộ, đừng mang theo anh áo quần gì, chỉ việc lấy đất lấp lên thân thể hư thối này là được rồi. Tôi mong khi Chúa trở lại, tôi sẽ được sống lại và bốc lên không trung. “Con cáo có hang, chim trời có tổ, song Con Người không có chỗ gối đầu”. Người tôi tớ lớn của Chúa là Môi-se, Chúa đã chôn cất và rồi không ai biết mồ mả của ông ở đâu. Làm việc cho Chúa suốt đời, tôi cũng muốn ẩn tàng, không lập mộ, dựng bia; tôi không muốn cho người đời biết tôi nằm nơi nào. Nếu mình và các con muốn biết anh nằm nơi nào thì chỉ cần một tảng đá với dòng chữ: “Đầy tớ bé mọn của Chúa, họ Tống, thế là đủ lắm rồi”.
Cảm ơn Chúa đã yêu dấu tôi tớ của Ngài, ba năm đầu Ngài trưởng dưỡng tôi tớ Ngài tại Hưng Hóa nhưng 3 năm cuối của cuộc đời, Ngài nuôi dưỡng tại Hương Sơn. Đêm 18-8, không trăng sao vì ngoài trời mưa rả rít, trong phòng chỉ có một ngọn đèn heo hắt. Nhà tôi đã thấy tôi quá mệt mỏi nên không nở để cho tôi cứ mãi ngồi bên ông như thế, nên đã hối thúc tôi đi ngủ. Tôi đang lơ mơ đi vào giấc ngủ thì nghe nhà tôi cầu nguyện, tôi choàng dậy, thấy nhà tôi đang chắp 2 tay trong tư thế thờ phượng, và cầu nguyện tiếng đứt khoảng. Tôi thấy thật lẻ loi, chỉ có thể đến quỳ gối bên nhà tôi và cất tiếng nguyện cầu: “Chúa ôi, xin cất tôi tớ Chúa trong ban ngày, đừng rước đi trong ban đêm vì thân hữu bạn bè của tôi tớ Chúa đều còn đang ngon giấc!”. Cầu nguyện xong đứng dậy ngợi khen Chúa, tôi thấy đôi môi nhà tôi mấp máy, và mặt nhà tôi bỗng phát ra một ánh sáng trắng chói lòa, lúc ấy thì trong phòng chỉ có một ngọn đèn dầu rất nhò. Tôi chiêm ngưỡng được ánh sáng kỳ diệu này trong lòng được niềm vui và an ủi lớn. Thế rồi nhà tôi hôn mê đi.. cho đến sáng thì tỉnh lại và lại cất tiếng hát ngợi khen Chúa. Hát được 3 bài, rồi sự đau thương sâu thẳm nhất ngày hôm ấy đã trở thành một sự an bình và vui mừng cao vời tột đỉnh: Nhà tôi đã được gặp và đi ở với Chúa, Đấng mà ông hết lòng yêu mến thờ phượng và phục vụ!”
Bình minh ngày 18-18, ông Giăng Tống đã được Chúa rước đi. Ông ở tạm trên đời 43 năm để an nhiên trở về nhà trên trời, nghỉ ngơi trong lòng của Đức Chúa Trời. Những người thân yêu trong gia đình Tống Thượng Tiết ngoại bà cùng 3 cô con gái Thiên Anh, Thiên Châu, Thiên Quyền còn có thân hữu bác sĩ, y tá. Khi Mục sư Vương Minh Đạo vừa đến nơi, tang quyến đã mời ông làm lễ tẩm liệm cho Tống Thượng Tiết. Năm giờ chiều cùng ngày lễ nhập quan, Vương Minh Đạo đã dùng Khải Huyền 14:13 giảng cho buổi lễ: Tôi nghe tiếng từ trời nói: “Hãy chép: Từ nay, phúc cho những người chết trong Chúa!”. Thánh Linh xác nhận: “Đúng! Họ sẽ nghỉ ngơi mọi lao khổ và thu gặt kết quả rất tốt đẹp”. Ngày 22 tháng 8 cử hành lễ an táng, mọi người đều muốn ông Vương Minh Đạo chủ lễ. Lễ an táng hôm ấy ngoài thân bằng quyến thuộc còn nhiều thân hữu từ Thiên Tân, Yên Đài, Xoa Thô, Hạ Môn, Phước Châu... hơn 200 người. Ông Vương Minh Đạo dùng Giê-rê-mi 1:4-9 để giảng cho tang lễ (Đại ý của bài giảng xin xem chương 53). Sau lễ tại nhà thờ, đoàn người đưa quan tài Tống Thượng Tiết đến nghĩa trang trên núi phụ cận Hương Sơn. Nơi đồi an nghỉ này ngày trước Tống Thượng Tiết vẫn thường lui tới để đọc và suy gẫm Lời Chúa. Quyển Thánh Kinh được chôn với thi hài Tống Thượng Tiết là do ông Peter Trương tặng. Ông Trương là một học giả tốt nghiệp ngôn ngữ học tại Đại học Yến Kinh, vì lao phổi nên cũng đến Hương Sơn để tịnh dưỡng. Ông Trương là một Cơ-đốc nhân trung tín và có ý định ra nước ngoài để truyền bá Phúc âm nên khi Tống Thượng Tiết đến nghỉ ngơi tại Hương Sơn, ông thường lui tới đàm đạo với Tống Thượng Tiết. Peter Trương cũng là một trong những người đưa Tống Thượng Tiết đến nơi phần mộ. Đoàn người vừa đi vừa hát:
“Công trình lao khổ đã hoàn tất.
Chiến tranh hung tàn cũng từng nếm trải.
Người bộ hành đã đi qua sóng gió cuộc đời.
Bây giờ ở bên bờ kia hưởng an nghỉ,
Cha ôi! Kính cẩn đem tôi tớ ngủ yên
Dâng Cha ta gìn giữ cách từ ái.
Đến bờ kia vết nước mắt đều tan biến.
Đến nơi ấy những nghi nan sẽ được am tường.
Cuộc đời sẽ ra sao?
Xin Chúa là quan án công bình và chính trực.
Cha ơi! Kính cẩn dâng tôi tớ Ngài an nghỉ,
Giao Cha ta gìn giữ cách từ ái.”
CHƯƠNG 52
LỜI BÌNH PHẨM
Tiến sỉ Tống Thượng Tiết là một vĩ nhân thuộc linh một thời đại. Mặc dù ảnh hưởng đến Hội Thánh Trung Quốc nội ngoại rất lớn lao, nhưng Tống Thượng Tiết cũng chỉ là một con người. Con người với đủ những bất toàn và khuyết điểm. Vì vậy thái độ của người đời đối với ông không tránh khỏi được những phê phán gay gắt, khắt khe. Những phê phán này thường đến từ những con người hay bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu.
Tại đây chúng ta cũng nên điểm qua một vài phê phán bất công của người đời đối với một đầy tớ trung kiên của Đức Chúa Trời:
1. Bất cứ đến truyền giảng và bồi linh nơi nào, Tống Thượng Tiết cũng dặn dò phải cho ông uống nước súp gà trước khi giảng. Người đời đã phê phán uống nước súp thay nước lã là phí phạm. Đối với thời bấy giờ, như vậy là tốn kém, nhưng một vài tô súp gà thì có đáng là bao đối với mỗi ngày Tống Thượng Tiết phải giảng 3,4 bài, mỗi bài giảng có khi kéo dài đến 3,4 giờ đồng hồ. Và chúng ta cũng biết, mỗi lần giảng Tống Thượng Tiết thường gào thét như muốn dốc đổ cả lòng mình ra và muốn xuyên thấu Lời Chúa vào lòng người nghe. Vì vậy mỗi lần giảng, ông đã hao tốn rất nhiều sức lực. Nếu so sánh với người đời, một người làm việc lao tâm lao lực đến như thế thì phải có cao lương mỹ vị và phải được nuôi dưỡng thêm sâm nhung bổ lượng. Thế thì sao phê phán gắt gao khi Tống Thượng Tiết chỉ dùng vài chén súp gà?!
2. Tống Thượng Tiết là một người có tính tình nóng nảy, hay la rầy những người đồng công cộng tác khi bị trái ý. Chúng ta phải cảm thông với một con người làm việc quá nhiều lại không hề được nghỉ ngơi đúng mức nên tánh tình rất dễ bị gắt gỏng. Tuy nhiên sau mỗi lần Tống Thượng Tiết có lời nói hay hành vi nóng nảy thì ông đều nhận lỗi biết đó là điều chẳng hay. Thường thì ông khóc lóc tự trách mình, cho là con người cũ tác yêu tác quái. Mỗi khi Tống Thượng Tiết nổi nóng thì ai cũng phải sợ và tránh xa, vì ông không kiêng dè một ai, cho dẫu là yếu nhân, danh nhân, tuổi cao hay có địa vị quyền thế trong xã hội. Việc cần phải nói là ông nói, giáo huấn, la rầy. Người ngoại cuộc thấy hình như ông lấy làm thú vị khi la rầy như thế. Do đó họ đã than phiền, trách móc ông. Nhưng vấn đề được đặt ra là người bị la rầy, giáo huấn có đáng được như vậy chăng? Nếu đáng phải giáo huấn la rầy mà không giáo huấn la rầy thì có phải Tống Thượng Tiết đã không phải là một người bạn chân thành, chính trực? Thói thường, người đời chỉ thích được khen tặng, ve vuốt mà không muốn bị chỉ trích, chê bai. Tống Thượng Tiết là người thẳng thắn không dung túng tội lỗi, ông có la rầy, giáo huấn thì cũng xuất phát từ tấm lòng yêu thương mà thôi. Bằng chứng là nhiều người sau khi đã bị Tống Thượng Tiết la rầy, sau trở nên những con người đổi mới. Hạng người được Tống Thượng Tiết giáo huấn nhiều nhất là thích nịnh bợ và được nịnh bợ, vì sau khi bị la rầy họ không còn dám bợ đỡ nữa! Còn kẻ được nịnh bợ sau khi được giáo huấn cũng không còn có cảm giác lên mây khi được nịnh bợ... Từ đó chúng ta thấy tánh hay la rầy những khuyết điểm người khác không phải là khuyết điểm mà trái lại đó là một ưu điểm. Thật khó có người dám bẻ trách sửa trị vì lòng yêu thương. Người mang tâm tình thế tục không sao hiểu thấu và không sao mang nhãn quan của tình yêu thì không thể chỉ trích Tống Thượng Tiết được.
3. Có người khác phê bình cho rằng Tống Thượng Tiết thích phái nữ hơn. Những lời phê bình này không có ẩn ý gì đen tối vì điều này ai cũng biết thì Tống Thượng Tiết là một người hoàn toàn thanh sạch, không thể chê trách được. Ông thích chọn người nữ thông dịch cho ông hơn thì quả là đúng và có nhiều lý do chính đáng: (1) Sự chú ý của người nữ tập trung hơn, nên dịch trung thực hơn và đi thẳng vào từng chữ từng câu, không suy diễn hay giải thích méo mó; (2) Thanh âm của người nữ trong trẻo hơn, vang xa hơn, hệ thống khuếch thanh lúc bấy giờ còn rất hạn chế trong các nơi đông người. Đó là lý luận của ông, dĩ nhiên không phải ai cũng đồng ý với lý luận này! Nhưng đó cũng là kinh nghiệm nghề nghiệp cá biệt của Tống Thượng Tiết. Nhưng dẫu sao thì đó không phải là một khuyết điểm của ông như nhiều người đã cố tình nên lên. Hơn nữa, Tống Thượng Tiết đối với phụ nữ rất là mực thước, không bao giờ đùa bỡn, không để miệng thế gian có thể đám tiếu được. Bằng chứng có hôm cô Trịnh Toại Lam đến nhà Tống Thượng Tiết để ghi lại bài giảng ông thuật lại. Ông đã vui vẻ nói cô Trịnh: “Đêm qua đọc tiên tri Ê-xê-chi-ên, tôi được một bài giảng, bây giờ tôi xin kể, cô cố gắng nghe và ghi chép lại cho thật đúng”. Ngay sau đó ông gọi vợ và con gái: “Nào mẹ nó ơi, Thiên Chân ơi, hãy lên lầu ngay bây giờ nghe cha giảng Thánh Kinh!”. Bà Tống cùng Thiên Chân, thứ nữ của Tống Thượng Tiết, lúc ấy mới lên 7 cùng lên lầu. Nhưng bà Tống dọn dẹp phòng ốc nên chỉ ngồi một lát rồi xuống dưới nhà. Thiên Chân xuống theo mẹ, nhưng cha không cho, bắt phải ngồi lại để nghe ông giảng Thánh Kinh. Cô bé Thiên Chân đáng thương như đã bị giam lỏng hơn 1 tiếng đồng hồ, bé muốn khóc nhưng lại không dám nên gương mặt bé mếu mó trông rất tội nghiệp. Trịnh Toại Lam rất bất bình nhưng sợ uy của Tống Thượng Tiết nên không dám lên tiếng bênh vực cho cô bé. Mãi về sau cô Trịnh mới biết hậu ý của Tống Thượng Tiết: Không phải ông chuyên chế bắt cô bé phải vâng phục, hay muốn cho cô bé phải nghe những giáo lý cao siêu, nhưng trước kia những cuộc đàm đạo đều ở nhà dưới, hôm nay lên lầu là để được yên tĩnh hơn, nhưng để tránh sự hiểu lầm có thể xảy ra.. nên con bé Thiên Chân bị trở thành “nạn nhân” bất đắc dĩ..
Từ đó chúng ta có thể hiểu được Tống Thượng Tiết không phải chỉ là một con mọt sách không biết gì về cách xử thế, ngược lại ông là một người tế nhị biết thích ứng với hoàn cảnh để xử sự. Một con người chẳng những tự buộc mình trong khuôn khổ kỷ luật nghiêm túc, mà còn buộc những người đồng công cũng phải ở trong khuôn khổ đúng cách và ích lợi ấy. Tôi xin dẫn chứng một vài thí dụ khác:
- Mùa xuân năm 1938, cô Trịnh Toại Lam có việc cần phải từ Thượng Hải về Phước Châu gấp, nhưng không có người đồng hành. Lúc ấy có một nhà truyền đạo tuổi trung niên – là người đồng hương Hồng Kông với cô Trịnh – muốn dùng đường bộ xuống làm việc phía Bắc Phước Kiến. Trịnh Toại Lam muốn tháp tùng đi theo người truyền đạo này về Phước Châu, nhưng Tống Thượng Tiết không cho, lấy cớ rằng trong thời buổi ly loạn, đường xá giao thông thường bị gián đoạn, nam nữ đồng hành sẽ có nhiều bất tiện. Trịnh Toại Lam vì lòng nao nức muốn về nhà ngay, cô cho rằng đồng hành với một người truyền đạo kính sợ Chúa chắc là an toàn. Nhưng Tống Thượng Tiết phản đối kịch liệt, ông bắt cả 3 cùng nhau cầu nguyện nhiều lần và cuối cùng chuyến đi bị ngăn trở. Mãi về sau khi đã hiểu biết ra, Trịnh Toại Lam mới thấy được sự khôn ngoan và chí lý của Tống Thượng Tiết. Nếu không nghe theo lời chỉ dạy của ông, hôm đó sợ đã có xảy ra nhiều điều không hay.
- Khi Tống Thượng Tiết muốn thiếp lập tại Thượng Hải một trạm thông tin liên lạc với các Đoàn Truyền Giáo quốc nội và hải ngoại, Tống Thượng Tiết có ý mời cô Trịnh Toại Lam phụ trách, nhưng lại ngại cô Trịnh tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm, lại là thiếu nữ không đủ nghị lực. Nhưng nếu dùng một người nam thì lại không lo được những công việc lặt vặt, cần sự tỉ mỉ. Nên biện pháp dùng 1 nam 1 nữ là lý tưởng. Nhưng Tống Thượng Tiết giữ gìn ý tứ buộc 2 người muốn làm việc chung với nhau trước nhất phải đính hôn với nhau đã. Tống Thượng Tiết tự đứng ra làm ông mai và chủ hôn, thậm chí cũng là người chịu trách nhiệm về lương bổng cho cả hai “nhân viên” này. Nhưng cô Trịnh đã trả lời rằng: “Tôi chỉ muốn sống độc thân để hầu việc Chúa”. Cho nên Tống Thượng Tiết đành hy sinh, bỏ qua kế hoạch thành lập trụ sở thông tin liên lạc tại Thượng Hải.
- Tháng 7-1932, một nhân viên của Bê-tên gặp một cô họ Vương trong trại hè và muốn đính ước cùng cô này, nhưng cũng trong ngày đó có một cô họ Lưu trên danh nghĩa là từ Phước Châu đến dự trại bồi linh nhưng kỳ thực là đến để theo đuổi anh chàng nhân viên này. Chàng ta vốn rất đẹp trai lại có tài năng về âm nhạc, hướng dẫn ca hát Ban Thanh niên Hội Thánh Phước Châu. Cô họ Lưu rất thích anh chàng đẹp trai này nên thường nhờ mẹ mời chàng cùng đi ra ngoài chơi hoặc dạo phố mua sắm. Chàng thanh niên đẹp trai này cũng thuận ý và đôi bên cũng đã có lời đính hôn. Nhưng anh chàng này lại không có lòng chung thủy, nên khi thấy cô họ Vương đã muốn thay lòng đổi dạ. Tống Thượng Tiết biết được việc này, đã bẻ trách và sửa trị trước mặt mọi trại viên. Chàng thanh niên đó đã phải đứng dậy xưng nhận tội lỗi trước mọi người. Người thiếu nữ họ Vương vô cùng xấu hổ, cô họ Lưu cũng thấy tủi nhục và việc đính ước của hai người vì vậy đành tan vỡ!
(3) Tống Thượng Tiết thường nói: “Tôi không khoe mình, mỗi ngày tôi đều ra mắt Chúa, vì tấm lòng tôi thanh sạch”. Nếu Tống Thượng Tiết có một tà ý nào trong vấn đề nam nữ thì chắc chắn không làm sao gặp được mặt Chúa và cũng không thể nhận được quyền năng thiên thượng đến từ Ngài như vậy.
(4) Vấn đề Tình và Tiền? Một số người trong Đoàn Truyền Giáo lưu động Bê-tên đã từng nghi ngờ Tống Thượng Tiết đã tự ý nhận tiền dâng hiến của các tín hữu hay âm thầm bảo các nhà hảo tâm muốn dâng hiến cho Đoàn Truyền Giáo gửi về tư gia cho ông. Sự thật thì những lời đàm tiếu đó vô căn cứ và hoàn toàn sai sự thật, nên nơi đây chúng ta cũng không cần phải nhiều lời minh xác cho một việc không căn cứ này. Ngay cả cho đến khi Tống Thượng Tiết đi hầu việc Chúa tự do (không lệ thuộc vào vào một cơ quan tổ chức nào) thì vẫn bị mang tiếng là người tham lam tiền bạc. Nhưng với cái nhìn thật khách quan, hãy nhìn vào cuộc sống của Tống Thượng Tiết. Không bao giờ ông có một hành động hưởng thụ vật chất. Luôn luôn ông dùng những phương tiện di chuyển rẻ tiền nhất, hành trang không quá một chiếc va-li nhỏ, trang phục thì luôn luôn mặc một chiếc áo vải thô, nơi ở thì rất giản đơn. Con người có một cuộc sống như vậy thì tham lam tiền bạc làm gì? Khi Tống Thượng Tiết đi hầu việc Chúa, đương nhiên các đoàn thể cũng như cá nhân biếu tiền cho ông cũng nhiều, vì họ biết rằng ông là người đi hầu việc Chúa tự do, không được một cơ quan nào đài thọ tiền bạc lương bổng. Hơn nữa nhiều người cảm kích đời sống hy sinh của ông muốn giúp đỡ để ông có phương tiện mà hầu việc Chúa, truyền giảng Phúc âm của Ngài. Một người hầu việc Chúa nhận được tiền công từ nơi Chúa thì không thể kết luận là người tham lam tiền bạc được. Nếu giả định rằng Tống Thượng Tiết khước từ những món tiền mà con cái Chúa giúp đỡ thì những vạch lá tìm sâu cũng có thể lên án hoặc phao lên rằng ông là người tìm cầu danh vọng, bằng sức lực và tài năng để có tiếng thơm và mua chuộc lòng người về với mình!! Chúng ta cũng biết rất rõ ràng, những số tiền Tống Thượng Tiết nhận được, ông đã dè xẻn chi tiêu cho mình trong khi đi lại hầu việc Chúa, giúp cho gia đình một ít, số còn lại ông đều dâng hiến cho Chúa. Gia đình của Tống Thượng Tiết cũng xác nhận rằng, ông rất ít khi gửi tiền về nhà, nếu có thì cũng qua những người được ủy quyền để trao lại, còn phần nhiều ông trực tiếp gửi vào chương mục của Hội Thánh. Người em của Tống Thượng Tiết nhiều lần đã khuyên Tống Thượng Tiết nên gửi chút tiền về cho chị và các cháu. Nhưng thường được nghe ông trả lời: “Cha trên trời chắc chắn sẽ lo toan”.
Người em trai của ông chia sẻ: “Tống Thượng Tiết vốn không phải là người có sức khỏe tốt, nhưng lại rất “liều mình” trong công việc Chúa. Đã vậy lại gặp quá nhiều trở ngại chống đối, thậm chí có kẻ muốn ám hại mạng sống ông nữa. Chúng tôi rất e ngại. Khi Tống Thượng Tiết hầu việc Chúa ở hải ngoại có ai gửi tiền đến là chúng tôi phải gấp rút gửi ngay vào ngân hàng!” Những lời tâm sự là đúng sự thật, vì ông thường tâm tình với con gái yêu của mình rằng: “Ba đã được Chúa sai quạ nuôi trong suốt thời gian hầu việc Chúa!” và lúc sắp lâm chung, ông cũng trăn trối cùng vợ con: “Chắc chắn sau này mình và các con, Chúa cũng sẽ sai quạ nuôi như tiên tri Ê-li đầy tớ của Đức Chúa Trời vậy”. Tống Thượng Tiết lìa đời không để lại một tài sản nhỏ nào cho vợ và các con, tiền bạc trong ngân hàng cũng không.
(5) Tống Thượng Tiết là một người tính nóng nảy, trong gia đình đôi lúc cũng nổi cơn nóng giận, nhưng rất hiếm, còn bình thường ông sống rất hài hòa hạnh phúc với gia đình. Ông thường bắt chước các con âu yếm gọi vợ là mẹ. Lối xưng hô thân mật này nói lên tấm lòng tha thiết mến yêu của ông đối với vợ.
Tuy vậy thời gian ông dành cho gia đình chẳng được bao nhiêu, lần mồi lần lại quá ngắn và thường bị rầy rà… Lúc nào ông cũng bận rộn phải thư từ cho những thân hữu xa gẩn, và phải làm nhiều việc linh tinh khác. Những lúc được về với gia đình gần như ông đã dành tất cả cho các con. Một lần kia, có một người đến thấy mấy đứa nhò đang nô đùa với một người trung niên. Họ đùa giỡn với nhau thật hào hứng. Chờ một lát khá lâu, người khách lên tiếng hỏi một cô bé: “Có Tiến sĩ Tống ở nhà không?”. Cô bé vừa mời vùa chỉ ngay vào người trung niên đang nô đùa với cô: “Dạ đây!”. Khách rất đỗi ngạc nhiên, vì tưởng người này là kẻ giúp việc trong nhà cho Tống Thượng Tiết. Vì trông người này chẳng những mặt mày xấu xí, phục sức lại tồi tàn, mà khách đến nhà cũng chẳng để tâm chào hỏi, cứ mải mê đùa giỡn với các con?... Nhìn qua vài nét như vậy cũng thấy được nếp sống gia đình đầm ấm của Tống Thượng Tiết. Nhưng những giây phút phước hạnh ấy của các con Tống Thượng Tiết rất hiếm hoi. Tổng cộng mỗi năm ông sống chung với gia đình chỉ dộ 30 ngày.
Khi gia đình Tống Thượng Tiết dời từ Hưng Hóa lên Thượng Hải vì Thượng Hải là tụ điểm của trục lộ giao thông, thuận tiện giao dịch với ngoại quốc. Trong cuộc chiến chống Nhật, Thượng Hải trải qua 2 lần tai biến. Hai lần ấy Tống Thượng Tiết đều để vợ con tự lo trong khói lửa chinh chiến, còn mình thì mải lo hầu việc Chúa ở phương xa. Nhiều người đã phê phán gay gắt Tống Thượng Tiết về điểm thiếu bổn phận và trách nhiệm với vợ con. Nhưng họ đã quên Lời Chúa Giê-su dạy rằng: “Ai yêu cha mẹ, vợ con, anh em hơn Ta thì không đáng cho Ta…”
(6) Thái độ với người thông dịch: Nhiều lần Tống Thượng Tiết không cho người thông dịch tiếp tục nữa vì dịch sai, lúng túng hay diễn dịch dài dòng làm mất ý chính. Hành động này cũng làm cho nhiều người khó chịu, nhưng suy cho cùng, chính Tống Thượng Tiết đã không tiếc chính mình, coi danh dự mình như rơm rác. Tất cả tập trung của ông: Sứ điệp của Cha phải rao giảng cho rõ ràng. Ông nghĩ rằng người khác cũng nên có thái độ như vậy. Người dịch khi thấy mình không đủ khả năng thông dịch thì tự ý nên đi xuống để người khác làm việc cho có hiệu quả hơn. Nhất là đối với những thông dịch viên đã dịch sai hẳn ý của ông muốn nói. Như ngày 5-6-1932, tại Hội Thánh Thượng Hữu Đường thuộc Phước Châu, Tống Thượng Tiết kêu gọi các nữ sinh trong dịp nghỉ hè nên đến các làng mạc để truyền bá Phúc âm, thế mà người thông dịch đã dịch rằng: “Những cô gái dù đã lập gia đình rồi cũng phải ra đi truyền giảng Phúc âm”… Đó là một sự sai lầm khá khôi hài nhưng chưa đến nỗi trầm trọng như tháng 7-1935. Trong một Đại hội nghiên cứu Thánh Kinh của Đoàn Truyền Giáo Phúc âm toàn quốc lần thứ I tại Hàng Châu, trong một bài giảng, Tống Thượng Tiết mô tả tâm trạng của Mác khi chia tay với Phao-lô và Ba-na-ba để quay trở về Giê-ru-sa-lem. Vì là một thanh niên trẻ tuổi đi truyền giáo lâu ngày nên bị “homesick” nhớ nhà; ấy thế mà người thông dịch đã chuyển ngữ ra là vì Mác còn trẻ tuổi, còn ham sắc dục nên phải quay về nhà… Chữ “homesick” tương tự như chữ háo sắc của Hạ Môn.
Tuy Đại hội tổ chức tại Hàng Châu nhưng có hơn 300 người từ Hạ Môn đến tham dự và họ đã ghi chép lại. Sai lầm như vậy quả là một tai ương! Về sau cũng vì chuyện ghi chép sai này mà có người đã đả kích Tống Thượng Tiết kịch liệt, cho rằng ông là một người bị thần kinh… Như vậy chuyện ông mời người chuyển ngữ cho tiện đi xuống há không phải là chuyện đáng nên làm chăng?
Tác giả của tập sách này cũng đã gặp nhiều người từng thông dịch cho Tống Thượng Tiết. Họ cũng bị những đau thương oan ức:
a. Tiếng Quan Thoại vùng Hưng Hóa của Tống Thượng Tiết thật là khó nghe. Nếu không quen và không biết nhiều tiếng địa phương Hưng Hóa thì không thể dịch cho ông được;
b. Khi giảng Tống Thượng Tiết hay chạy tới chạy lui trên tòa giảng, người dịch nhiều khi không chạy theo kịp, nên đã nghe không rõ;
c. Lúc Tống Thượng Tiết giảng thường dùng “trợ huấn cụ”. Thông dịch viên nghĩ rằng với trợ huấn cụ rõ ràng như vậy thì không cần phải thông dịch nữa, nhưng ông lại nghĩ rằng nếu không thông dịch theo nhịp của ông với trợ huấn cụ thì sức mạnh của bài giảng mất ý nghĩa đi rất nhiều. Ông thường rất bất mãn với người dịch không cố gắng đúng nhịp làm theo lời và hành động với ông. Thí dụ như khi giảng về Na-a-man, quan tổng binh Sy-ri tắm 7 lần để được sạch bệnh phung, Tống Thượng Tiết đã dùng tòa giảng như bờ sông và phía dưới là dòng sông. Nên ông đã nhảy lên nhảy xuống đúng 7 lần.
d. Tống Thượng Tiết rất nóng tính, người dịch nghe không kịp cũng không dám hỏi lại nhiều, không hỏi thì không dịch được, cứ như thế mà đâm ra lúng túng… Tống Thượng Tiết lại phải thay đổi người dịch, xem ra sự than phiền của người dịch cũng không phải là vô lý.
(7) Lắm lúc Tống Thượng Tiết đang khi giảng, ông nhìn thấy một chữ bổng nảy sinh ra những ý tưởng mới mẻ:
a. Chẳng hạn nhìn chữ Nam Xương, Tống Thượng Tiết giải thích, chữ này dạy cho tôi được “chỉ Nam phải quang xương”.
b. Một hôm khác ông thấy chữ Học Liên là tên của cụ thân sinh. Tống Thượng Tiết giải thích: Dạy cho tôi một bài “học”, và “liên” tức là hạ các thành phố nhỏ, rồi sau đó sẽ liên thông đến các thành phố lớn.
c. Một lần về Hưng Hóa truyền giảng chỉ có hơn 50 người lên phía trước cầu nguyện xưng nhận Chúa, Tống Thượng Tiết còn nói những người khác là “bất Hưng bất Hóa”.
d. Lúc Tống Thượng Tiết đến giảng tại Khai Phong, vì tình hình chiến sự, nên phải giới nghiêm, nên những buổi truyền giảng phải họp lại ở ngoại thành, sau 7 giờ tối giới nghiêm không ai được ra hay vào nữa, sau một thời gian tình hình bớt căng thẳng, Mục sư có thể hướng dẫn hội chúng lui tới, Tống Thượng Tiết phát biểu: “Quả đúng là Khai Phong rồi”.
e. Vương Thuận là tên của một người câm. Tống Thượng Tiết nói rằng khi mới nghe tên của anh này, tôi chắc chắn anh ta sẽ được chữa lành vì nếu lật ngược tên của anh lại là Thuận Vương nghĩa là “thuận phục Đấng Cứu Thế là Vua của muôn vua”;
f. Mông Thành: Tống Thượng Tiết hy vọng cả thành đều mong ơn Chúa;
g. Trường Lạc: Tống Thượng Tiết mong Chúa ban thưởng cho tôi là vĩnh phước Trường Lạc;
h. Ngô Châu: Tống Thượng Tiết đã lấy chữ Ngô trong Hán tự tách ra làm 2, một phần là Ngộ có nghĩa là Tôi. Phần thứ hai là chữ Thập (+): Mang cái tôi đóng đinh trên thập tự giá có nghĩa là mang con người cũ của tôi mà treo trên cây gỗ đó.
Giải thích theo lối chiết tự như thế, tiếng Anh gọi là Ennagram (graphology), lâu lâu dùng và phải dùng cho thật chính xác mới có nghĩa và thâm thúy, chứ như người thiếu học lại không được Chúa Thánh Linh hướng dẫn mà bắt chước dùng thì nhiều khi lố lăng, gán ghép không hợp lý. Người thông dịch lại quá vội vàng, khó có đủ thì giờ để hiểu rõ ý hầu dịch cho thật sát nghĩa.
Lắm lúc Tống Thượng Tiết trích ra những chữ được phiên âm ra chữ Hán hay những địa danh ngoại quốc để phân tích và giải thích theo sự hiểu biết của ông. Thí dụ như Tống Thượng Tiết đã dùng chữ Giê-ra-sê trong Phúc âm Mác đoạn 5: “Tôi rất thích căn cứ vào 3 chữ Hán phiên âm này để giải thích ý nghĩa này: (1) Giê phân tích theo Hán tự là các khúc cây; (2) ra: chữ Hán là lập có nghĩa là sự hướng dẫn; (3) sê chữ chánh là rừng cây, có ý nói rằng chỉ cần một người thật sự được hồng ân cứu chuộc thì có thể hướng dẫn nhiều người khác đến Chúa Cứu Thế. Chúa Giê-su trên bờ Giê-ra-sê tuy chỉ cứu được một người nhưng nhờ đó mà cả vùng nghe đến hồng ân cứu chuộc. Chúa Giê-su rất coi trọng phương pháp “Giê-ra-sê” này. Đức Chúa Giê-su chỉ cần cứu một người đàn bà Sa-ma-ri, sau đó là cả thành kéo đến tin nhận Chúa. Trên đường đến Đa-mách, Chúa chỉ bắt phục một mình Sau-lơ, để rồi khai phá cả một kỷ nguyên Hội Thánh và từ đó vô số người tin nhận Chúa. Tống Thượng Tiết không phải là người phân tích Thánh Kinh theo lối xét nghĩa của từng chữ, nhưng ông muốn gây sự thích thú cho người nghe. Để có thêm ý nghĩa mới, Tống Thượng Tiết đã dùng Ma-thi-ơ đoạn 5, nói về các phước lành, giảng và phân tích cùng một lúc với sách Giô-na và đối chiếu những Thi Thiên cùng sách Phúc âm Mác. Ông cũng dùng 7 ngày sáng tạo trong Sáng-thế-ký để tỉ đối với quá trình cuộc đời chính mình. Cũng may mà Tống Thượng Tiết không đi sâu vào chiều hướng này.
Về phương diện này, Mục sư Vương Minh Đạo đã có lời bình phẩm như sau: “Mùa xuân năm 1932, tôi đến giảng cho vài Hội Thánh tại tỉnh Sơn Đông đã nghe một số tín hữu than phiền về cách giải thích Thánh Kinh theo lối chiết tự, chính tôi cũng có những ý tưởng chống đối Tống Thượng Tiết. Lúc bấy giờ ông đang giảng tại một số Hội Thánh cũng thuộc vùng Sơn Đông, ông đã cố tình bàn quá rộng để mất hết ý nghĩa ban đầu và nhất là khi ông giải thích các địa danh và tên người trong Thánh Kinh đã không nghiên cứu đến nguyên văn của nó mà chỉ căn cứ vào ý nghĩa chữ Hán mà giải thích, sai lệch cả ý nghĩa nguyên thủy của nó. Thí dụ như khi Tống Thượng Tiết giải nghĩa tên của Phi-lát: Phi chữ Hán là bỉ có nghĩa “nợ”, Lát chữ Hán là “lôi kéo”. Có nghĩa là người của nó lôi kéo đến thì đông, còn các người đến đó thì ít... Đại loại những lối giải thích và giải nghĩa Thánh Kinh như vậy khiến tôi thật thắc mắc không biết tại sao một người đã từng du học ngoại quốc lại không biết những địa danh và tên người trong Kinh Thánh chỉ là những phiên âm chứ đâu có mang ý nghĩa gì trong Hán văn? Vì vậy thoạt đầu đối với Tống Thượng Tiết tôi đã có một ấn tượng rất xấu. Nhưng vì lúc đó tôi chưa từng biết với ông cũng như chưa từng nghe ông giảng Thánh Kinh nên không dám có ý kiến gì. Nhưng về sau tôi thấy tận mắt những kết quả Tống Thượng Tiết mang lại thật vĩ đại, có vô số người đã ăn năn xưng tội, tin nhận Chúa Cứu Thế và nhận được sự cứu rỗi. Có rất nhiều tín đồ được phấn hưng khi nghe ông giảng bồi linh. Về sau Tống Thượng Tiết lại mạnh dạn chỉ trích hội chúng và tất cả các hệ phái về tội lỗi, ông không e ngại giáo quyền, cũng không quan tâm đến danh dự cá nhân mình. Tại một vài nơi, thậm chí có những người âm mưu ám hại Tống Thượng Tiết. Nhưng Chúa đã gìn giữ nên Tống Thượng Tiết không bị trúng độc thủ mưu của họ. Tôi cũng từng nghe Tống Thượng Tiết lớn tiếng hô hào truyền bá Phúc âm bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng của mình. Tôi phải thừa nhận rằng Tống Thượng Tiết quả là một người đã được Chúa trọng dụng. Từ đó những ấn tượng của tôi về Tống Thượng Tiết đã hoàn toàn thay đổi. Phương pháp giải Kinh của ông có một đôi khi không thích hợp và đi quá xa ý chính, nhưng vì ân tứ của Chúa ban cho ông là để kêu gọi con người đến với Chúa Cứu Thế chứ không phải để diễn giải Thánh Kinh. Đối với phương pháp dùng chữ Hán để giải thích các đại danh từ, có người cho rằng Tống Thượng Tiết chỉ nhìn mặt chữ rồi phân tích chữ ấy ra trong ý nghĩa chữ Hán để giải thích Thánh Kinh là xằng bậy! Cắn cứ vào ký ức và những bản ghi chép được của cô Trịnh Toại Lam – gần như buổi thuyết giảng nào của Tống Thượng Tiết cô cũng có mặt. Cô ghi lại như sau: “Việc Tống Thượng Tiết giải thích ý nghĩa các tên người và các địa danh chỉ có một mục đích làm cho người nghe có một ấn tượng sâu sắc hơn khiến cho người ta dễ nhớ, nhưng lắm lúc người nghe cũng tung ra những tin đồn thất thiệt. Như có người đã thuật lại cho Mục sư Vương Minh Đạo về việc Tống Thượng Tiết đã giải thích tên Phi-lát – như chúng ta đã nghe qua – là không đúng sự thật. Chính tai tôi đã nghe được 2 lần, Tống Thượng Tiết nói rằng sự thất bại của Phi-lát là vì ông ta để cho áp lực quần chúng gào thét, ông ta đã nhượng bộ, trong khi đó ông ta biết chắc là Chúa Giê-su là người công nghĩa, vô tội. Ông ta có ý phóng thích Ngài, nhưng những tiếng gào thét “ hãy giết nó đi, vì bằng quan tha người này thì quan không phải là trung thần của Sê-sa!”. Lương tâm của Phi-lát bị khỏa lấp, và ông ta đã giao Chúa Giê-su cho quần chúng, cuối cùng họ đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Tống Thượng Tiết không giải thích tên Phi-lát theo lối chiết tự. Theo tôi thì Tống Thượng Tiết chỉ muốn nêu lên một nguyên tắc “Ý kiến đa số chưa hẳn là đúng tuyệt đối”. Trong Thánh Kinh thư Rô-ma 12:17 dạy chúng ta: “Chớ lấy ác trả ác cho ai, phải chăm tìm điều thiện trước mặt mọi người”. Việc lấy mắt đến mắt, răng đền răng dưới mắt loài người là công lý. Nhưng Thánh Kinh dạy chúng ta ngược lại. Vì vậy khi muốn phê phán một người nào, chúng ta nên theo nguyên tắc “chăm tìm điều thiện” có nghĩa là phải đắn đo suy xét cho chín chắn, nếu hợp lý hợp tình rồi hãy đi đến kết luận...
Chúng ta cũng không khó khăn lắm mà suy nghĩ rằng, lúc bấy giờ nền giáo dục Trung Hoa chưa được phổ biến rộng rãi. Có một số người dốt nát, nền tảng đức tin không vững chắc, xu thời, thậm chí không biết gì về nguyên tắc của Thánh Kinh, cú dựa vào ý nghĩa chữ Hán mà giải thích. Việc này có xảy ra nhưng qui trách nhiệm cho Tống Thượng Tiết là một điều bất công. Cũng như nhiều người đã dùng Thánh Kinh để suy diễn và giải thích sai lệch, nhưng Thánh Kinh không chịu trách nhiệm về những hành động đó vậy.
CHƯƠNG 53
NHỮNG LỜI TÔN KÍNH CỦA VƯƠNG MINH ĐẠO
Ngày 22-8-1944, trước khi thi hài của Tống Thượng Tiết được mai táng, đã có một buổi thờ phượng. Mục sư Vương Minh Đạo dùng Lời Chúa chia sẻ trong dịp này. Có hơn 200 người đến dự tang lễ. Tuy bài giảng của Vương Minh Đạo không được ghi chép lại, nhưng căn cứ trên những bài văn đăng tải trên tập san “Thức Ăn Thuộc Linh” số 71 thì bài văn đọc trong lễ an táng của Tống Thượng Tiết đại ý như sau: “Tống Thượng Tiết quả là một con người đặc biệt, rất thông minh, gần như khuyết điểm duy nhất của ông là trực tánh. Những người đã từng nghe ông giảng, hay có dịp tiếp xúc với ông đều nhận xét rằng, Tống Thượng Tiết là một người không câu nệ, phải là làm, vì vậy đã xúc phạm đến nhiều người, khiến họ có ác cảm với ông, và cho rằng ông là người kiêu ngạo. Sự thật thì trái lại, Tống Thượng Tiết là một người rất khiêm nhường, nhưng ông lại không khéo léo trong cách cư xử, nên dễ bị ngộ nhận. Tôi (Vương Minh Đạo) nghe những ai đã nặng lời chỉ trích Tống Thượng Tiết thì cũng đã dùng lời lẽ để thanh minh, giải thích cho họ cảm thông. Tôi thấy Tống Thượng Tiết cũng cần được giúp đỡ trong vấn đề này. Khi ông vào bệnh viện Hiệp Hòa tại Bắc Kinh, tôi đã dặn dò khuyên can ông rất nhiều. Có lần tôi hỏi ông về trường hợp một người than phiền cùng tôi, ông này đến thăm Tống Thượng Tiết, nhưng bị ông đuổi ra khỏi nhà, tại sao ông lại cư xử như vậy? Tống Thượng Tiết đã trả lời rằng: “Tôi cần có thì giờ để cầu nguyện, để học Kinh Thánh, tôi không có thì giờ tiếp ông ta, nên đã phải xin ông ta ra khỏi nhà!”. Tôi nhỏ nhẹ hỏi thêm: “Ông cầu nguyện, đọc Kinh Thánh mục đích có phải để giúp đỡ cho tha nhân chăng? Vậy tại sao có người đến mong ông giúp đỡ, ông lại đuổi người ta? Như vậy có phải đã trái với nguyên tắc sở nguyện của ông chăng? Mặc dù tôi biết ông rất cần tĩnh lặng trong khi cầu nguyện và học Kinh Thánh, nhưng nếu không thể tiếp chuyện với khách thì cũng nên uyển chuyển nói rõ lý do, xin hẹn sẽ nói chuyện khi khác thì mới phải lẽ. Sao lại phải xẳng xớm đuổi ra khỏi nhà?”. Tống Thượng Tiết trả lời: “Tôi sẽ không hành động như vậy nữa!”. Tôi lại nói với Tống Thượng Tiết: “Bây giờ tôi có cần dạy cho ông phải nói như thế nào trong những trường hợp như vậy?”. Tống Thượng Tiết cười xòa, tôi cũng cười theo... Tôi lại bắt sang một chuyện khác: “Có nhiều người viết thư cho ông, chẳng hạn các đại diện Hội Thánh các nơi có thư mời ông đến giảng bồi linh và truyền giáo, ông có trả lời cho họ không?”
- Tống Thượng Tiết trả lời: “Nếu nơi nào tôi thấy có thể đi được, tôi viết cho họ biết là tôi sẽ đến lúc nào, để họ tiện việc sắp xếp chương trình. Còn những nơi nào tôi không đến được tôi không hồi âm, vì không thấy thư tôi trả lời, họ tất phải biết là tôi không đến được!”
- Tôi tấn công thêm: “Người khác đã viết thư mời ông, đi được hay không ông cũng phải hồi âm cho họ kẻo họ cứ ngóng trông mãi”.
- “ Tôi không có đủ thì giờ để viết những lá thư như thế”.
- “Không có thì giờ cũng phải viết chứ, cùng lắm thì phải nhờ một người khác làm thế cho”.
Về sau Tống Thượng Tiết đã nhận lời khuyến cáo của tôi.
Tôi hỏi Tống Thượng Tiết qua một đề tài khác:
- “Khi có một ai biếu quà hay tiền, ông có cám ơn người ta không?”
- “Tôi chỉ cảm ơn Chúa, tôi không cảm ơn người”.
- Tôi liền nhắc nhở ông: “Cảm ơn Chúa đương nhiên là quan trọng, nhưng không thể thiếu sót mà không cám ơn người. Ông nên đọc quyển “Cách Xử Thế Với Tín Hữu”. Tống Thượng Tiết cười và trả lời:
- “Tất cả tác phẩm của ông Vương tôi đều rất thích đọc, ngoại trừ quyển “Cách Xử Thế Với Tín Hữu”. Vì tôi sợ nó!”
- “Ông cần phải đọc để học hỏi. Ông sợ nhưng phải đọc. Tôi sẽ biếu ông một quyển khác và ông phải hứa với tôi là sẽ cố gắng đọc!”. Tống Thượng Tiết nở một nụ cười như trẻ thơ, trong đó cũng hàm ý rằng: “Sao ông làm khó cho tôi quá vậy?”. Chúng tôi cùng cười xòa với nhau, thật vui vẻ và hồn nhiên... Tôi biết thật Tống Thượng Tiết đã giữ lời hứa, đã đọc và thực hành “Cách Xử Thế Với Tín Hữu” rất kĩ vì 2 năm sau khi tôi đến Hương Sơn thăm Tống Thượng Tiết thì ông đã biết ra tận cửa để đón khách, biết chấp tay vái chào, biết cảm ơn.. khách giã từ ra về ông tiễn khách ra tận cổng. Trước kia ông không bao giờ có những cử chỉ đó, dù bất cứ là khách nào. Khi mới gặp lại tôi, ông đã cười và nói với tôi bằng tiếng Phúc Kiến rằng: “Xử thế với tín hữu”. Ông mỉm cười lặp đi lặp lại với tôi câu này nhiều lần, hồn nhiên như trẻ thơ, không màu mè, không khách sáo.
Ngày trước, nhiều người thấy thái độ “không thủ lễ” của Tống Thượng Tiết tưởng rằng ông là người ngạo mạn, kỳ thực ông chỉ có cái lỗi là thiếu xã giao mà thôi!
Trực tính là khuyết điểm lớn của Tống Thượng Tiết, nhưng ông lại có rất nhiều ưu điểm ít ai sánh kịp. Tống Thượng Tiết là một người chân thành và chánh trực, trong con người đó không một chút giả trá, không bao giờ hiềm khích cùng ai. Lòng nghĩ thế nào thì phát ra lời thế ấy. Chưa bao giờ thất hứa với ai. Ông không vị nể ai, chính vì thế mà ông làm mích lòng nhiều người nhưng cũng chính vì thế mà ông được nhiều người nể phục!!... Tôi rất kính trọng Tống Thượng Tiết vì ông là người ngay thẳng. Tôi biết rằng nhiều người hầu việc Chúa rất tài, cũng lắm người có nhiều ân tứ đặc biệt, nhưng tìm cho ra những người trung thực, trong lòng giống như ngoài miệng thì rất là hiếm! Cái bề ngoài giả tạo hình như là bản chất của dân tộc Trung Hoa chúng tôi. Ngay cả những người đã dâng mình hầu việc Chúa cũng không thoát khỏi thông lệ đó. Có nhiều người hầu việc Chúa, nói năng tao nhã, cử chỉ lịch thiệp, khả ái, lúc mới sơ giao đã chinh phục được cảm tình cũng như sự nể vị của người đối diện, nhưng khi gần gũi một thời gian thì chân tướng giả hình, quỷ quyệt bèn lộ ra! Thấy hành vi cử chỉ khéo léo của họ và nghe những lời đạo đức họ giảng trong nhà thờ thì họ đúng là môn đồ của Chúa Giê-su, nhưng khi quan sát kĩ thấy được hành vi giả trá, lời nói ngọt ngào gian xảo thì họ đúng là môn đệ của Sa-tan. Có nhiều người hầu việc Chúa nhưng trước mặt là một người mà sau lưng lại là một con người khác hẳn. Trên tòa giảng là thiên thần mà ngoài đời là quỷ sứ. Trước mặt thì dịu dàng ngọt ngào nhưng sau lưng là chua chát đắng cay. Quý vị thấy trên mặt họ một chiếc mặt nạ tu hành đạo đức, nhưng sau nó cũng hàm chứa một điều gì đó khó có thể che giấu nổi! Muốn tìm một người chân thành, không giả trá 100% - với bộ mặt nguyên hình không giả tạo, thì thật là hiếm hoi, mà Tống Thượng Tiết là một trong số hiếm hoi đó ở giữa trần gian này. Ông là một con người trung thực trong mọi hoàn cảnh, trong mọi nơi chốn; đối xử công bằng với mọi lứa tuổi, mọi hạng người. Người đời dễ nhận ra sở đoản của Tống Thượng Tiết vì ông không thích cũng không có tài che giấu. Những người hầu việc Chúa khác có nhiều khuyết điểm gấp mấy chục lần của ông, thậm chí có khi còn gấp cả trăm lần nhưng vì khéo che giấu nên khó ai có thể thấy được! Nhiều người đã phê bình tính bộc trực của Tống Thượng Tiết, nhưng riêng tôi, tôi kính mến Tống Thượng Tiết không phải tôn trọng những sở đoản của ông, nhưng tôi tôn quý sự chân thành chính trực của ông. Dĩ nhiên những sở đoản là những bất toàn của con người cần phải sửa đổi và ông đã sửa đổi...
Có một điều đáng buồn là, những người khi mới được Chúa kêu gọi và chức vụ thì rất nóng cháy và hăng say, có một tấm lòng ngay thẳng, chân thành. Nhưng khi có tuổi kinh nghiệm dày dạn, từng trải gian nan, những chính trực chân thành tuổi trẻ biến dần thành giả trá cong queo! Lúc tuổi trẻ mới bước chân vào con đường hầu việc Chúa là con cừu ngay thẳng trong sạch, lúc xế chiều lại là một con cáo già nguy hiểm. Tôi thấy những đổi thay nghịch lý đó, nên thường nhắc nhở bản thân tôi, cẩn thận nếu không cũng lọt vào tình trạng bi dát ấy!
Tống Thượng Tiết lìa đời vào tuổi trung niên, ông chỉ sống vỏn vẹn chỉ có 43 tuổi. Nhưng những thành quả của công việc ông làm: Quả là vĩ đại! Những nơi Tống Thượng Tiết đã đến giảng Phúc âm cũng không ít. Những người ông đã tiếp xúc cũng quá đông. Những phê phán đả kích mà Tống Thượng Tiết đã chịu đựng cũng không thiếu nặng nề. Nếu Tống Thượng Tiết đã học được những quanh co lươn lẹo của lòng người thì những việc đó cũng không lấy chi làm lạ, nhưng đến lúc lìa đời mà ông vẫn giữ tấm lòng chân thành, chính trực. Quả là một chuyện khó tìm ở trần gian.
Tống Thượng Tiết còn có ưu điểm đáng quý nữa là lòng quả cảm, gan dạ. Ông mang tâm tình can đảm của các bậc tiên tri trong thời Cựu Ước. Tống Thượng Tiết là một dũng sĩ đả phá tội lỗi.
Tống Thượng Tiết không lo âu về những lời đả kích, chống đối của người khác, ông hầu như quên đi an toàn tính mạng cũng như danh dự của riêng mình. Nếu không nhờ sự quan phòng của Chúa thì Tống Thượng Tiết đã nhiều lần bị người khác đả thương, và lắm kẻ muốn ám hại mạng sống ông. Điều đó cũng có thể xảy ra vì tôi thiết nghĩ rằng ngoài xã hội cũng như trong Giáo hội ngày nay nhiều tội ác đang trên đà bành trướng mạnh! Toàn thế giới nơi nào cũng bị quyền lực tối tăm chi phối. Phải chi chúng ta có được những con người có tâm tình và dũng cảm như những tiên tri ngày xưa, coi nhẹ tính mạng riêng mình, xem thường danh dự, bất chấp lòng người gian trá, dũng cảm tấn công tội lỗi và Sa-tan. Thế giới và Giáo hội chúng ta cần những con người như thế. Nhưng những con người ấy quả là hiếm hoi. Ngày nay chúng ta đã tìm được một con người như thế, là Tống Thượng Tiết, nhưng ông đã sớm giã từ chúng ta, làm sao chúng ta không thương tiếc?
Tống Thượng Tiết được ban cho một ân tứ đặc biệt ấy là cáo trách tội lỗi, truyền bá Phúc âm, khuyên con người ăn năn, hối cãi, tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su, đưa con người đến sự cứu chuộc. Công việc giải Kinh không phải là sở trường của Tống Thượng Tiết, ông cũng không có ơn điều hành Hội Thánh, cũng không có khiếu về giao tế trong khi tiếp xúc với những người chung quanh. Ông rất dễ bị quần chúng kích động, ông cũng rất dễ bị lừa gạt, không dùng ông vào việc quản nhiệm Hội Thánh hay hướng dẫn một đoàn thể được. Nhiều người nghe Tống Thượng Tiết giảng đã được Chúa thức tỉnh, được cứu rỗi, được phục hưng lại, thấy Chúa đã dùng Tống Thượng Tiết cách lạ lùng trong công cuộc truyền giảng Phúc âm, tưởng rằng điều gì, việc gì ông cũng biết, cũng làm được: Thật là sai lầm. Sự sai lầm này cũng rất phổ biến trong các Giáo hội ngày nay. Hội chúng chỉ cần nhìn thấy một người nào đó có ân tứ giảng dạy, làm cho hội chúng cảm động là có thể giải đáp mọi nan đề, bất cứ gặp chuyện rối rắm nào cũng xin gặp mặt để học hỏi, xin ý kiến và sẽ dễ dàng làm theo tất cả những sự hướng dẫn của vị đó, vì tưởng rằng một người đã được Đức Chúa Trời dùng thì trở nên giống như chính Ngài! Sai lầm này nếu không được sửa chữa tích cực, không những không có ích lợi gì cho Hội Thánh mà còn có hại cho tôi tớ Chúa nữa.
Khi thấy Tống Thượng Tiết được Đức Chúa Trời sử dụng cách đặc biệt, chúng ta đã thấy một hiện tượng dở khóc dở cười. Một số người không được một ân tứ nào, chẳng có lòng nhiệt thành, cũng không được sự kêu gọi của Đức Chúa Trời, thấy Tống Thượng Tiết thành công trong giảng dạy, được nhiều người mến mộ, nên đã học đòi theo lối giảng dạy nóng cháy của ông, học đòi theo cả lối chạy lui chạy tới trên tòa giảng, cũng học đòi cáo trách tội lỗi người khác, rập khuôn theo cung cách, nết mặt của ông khi giảng dạy, thậm chí bắt chước cả những khuyết điểm của Tống Thượng Tiết nữa!! Họ cố gắng làm ra mình là Tống Thượng Tiết thứ nhì, thứ ba v.v… Nhưng họ biến họ thành trò hề cho thế nhân, thật lố bịch và làm nhục nhã cho Hội Thánh. Những người có tâm tình đã phải cười ra nước mắt!
Đức tính vĩ đại nhất của Tống Thượng Tiết là lòng chân thành. Chính vì lòng chân thành đó mà ông được Chúa trọng dụng, được người yêu kính. Chính vì lòng chân thành đó mà những khuyết điểm của Tống Thượng Tiết dễ được tha thứ. Sự giảng dạy của ông phát ra từ lòng chân thành, ngay cả những cử chỉ múa may, chạy lui chạy tới trong tòa giảng, hay la hét trong khi giảng dạy. Mỗi khi tôi đọc lại những sách tiên tri trong Cựu Ước, tôi phải khâm phục lòng quả cảm đã trung thành của những vị tiên tri ấy. Xét qua lịch sử của dân Do Thái, họ bội nghịch Thượng Đế, phạm đủ các tội trọng: Thờ hình tượng, tà dâm, xảo trá, ích kỷ. Đời sống của họ đi ngược hẳn với mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Một dân tộc như vậy, sống trong một thời đại như vậy quả là cần những vị tiên tri kính sợ Đức Chúa Trời, can đảm, chính trực để thức tỉnh họ. Trở về với tình trạng của Giáo hội Trung Quốc ngày nay, quả giống như tình trạng của dân Do Thái ngày xưa. Cả thế giới và Giáo hội ngày nay cũng cần những vị tiên tri của Đức Chúa Trời, đầy can đảm dám đả kích tội lỗi, không nghĩ đến cả danh dự, tính mạng của mình, đứng dậy hô hào dân sự từ bỏ tội lỗi, tà thần mà quay trở về với Chúa Hằng Hữu. Trong Giáo hội Trung Quốc hôm nay, cũng có thể tìm được một ít người có tri thức, một ít người có ân tứ thuộc linh, một ít người có nếp sống tin kính, nhưng tìm cho ra được một người mang tâm tình của các tiên tri đời xưa thì thật là quá hiếm hoi, mà Tống Thượng Tiết chính là con người quá hiếm hoi đó. Tìm được nhưng ông lại sớm lìa đời. Rồi đây chúng ta có hy vọng gì tìm được một Tống Thượng Tiết thứ nhì chăng? Tống Thượng Tiết đã an nghỉ cùng Chúa nhưng công việc của Đức Chúa Trời thì chắc chắn là chưa an nghỉ. Hôm nay, Ngài vẫn tiếp tục kêu gọi những con người thích hợp để sử dụng trong công việc của nhà Ngài. Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục chuẩn bị và đào tạo những người can đảm dám dâng đời sống mình cho Ngài. Năng lực của Đức Chúa Trời vẫn đến một cách mạnh mẽ trên những người quả cảm, trung kiên hầu việc Ngài. Lời của Chúa vẫn hằng kêu gọi: “Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Ê-sai 15 6:8; và Ngài cũng hứa với người đã được Chúa sai đi: “Đừng thoái thác vì tuổi trẻ! Con sẽ đến tất cả những nơi Ta sai con đi và truyền giảng tất cả những lời Ta dạy con. Đừng sợ loài người vì Ta ở với con luôn để giải cứu con. Chúa Hằng Hữu hứa với con điều đó!”. “Vậy con hãy đứng dậy. mặc áo sẵn sàng, đi bảo chúng những lời Ta dạy con. Đừng sợ chúng nó, nếu không, Ta sẽ bỏ mặc con để cho con run sợ khi gặp chúng. Này ngày nay Ta cho con một thành kiên cố, làm cột sắt tường đồng để chống với cả đất nước Giu-đa, từ các cấp lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho đến các thường dân trong nước. Họ sẽ chống đối, tranh đấu với con, nhưng không bao giờ thắng nổi, vì Ta ở với con để giải cứu con”. Giê-rê-mi 1:7-8; 17-18.
Tội lỗi của thế gian ngày càng gia tăng, sự phân hóa của Hội Thánh ngày càng trầm trọng. Những tiên tri của ngày nay chịu đáp ứng lời kêu gọi của Chúa xin hãy trả lời: “Có tôi đây, xin hãy sai tôi!”
Mục sư Vương Minh Đạo
Ngày 15 tháng 9 năm 1944.
PHỤ LỤC
Bài giảng luận của Tống Thượng Tiết.
(Lời nhắn nhủ)
Trong cơn đau ốm của người đầy tớ ngay lành, trung tín của Đức Chúa Trời.
Một trăm mười ba ngày trên giường bệnh này trong tâm linh tôi thấy rõ sự dìu dắt, dạy dỗ của Chúa thật tỏ tường. Trước kia tôi đặt trọng tâm vào việc truyền giảng Phúc âm, bây giờ tôi thấy việc cầu nguyện mới là tối quan trọng. Thế giới thuộc linh đúng là vô hạn vô lượng. Người đầy tớ ngay lành trung tín của Chúa cần phải chú ý đến 12 điều sau đây:
1. Đối với thế gian và xác thịt thì phải chết một cách trọn vẹn. Đối với tôi, điều tối quan trọng là chết thật sự: “Hiện nay tôi sống không phải là tôi sống nữa nhưng Chúa Cứu Thế sống trong tôi”, Cái tôi chết đi là có ích cho tôi bội phần.
2. Phải được mặc khải trực tiếp từ Chúa. Không chỉ truyền giảng suông, mà còn phải nói những dự ngôn mà chính Chúa đã khải thị cho biết. Không những chỉ nhận những mặc khải của Chúa Cứu Thế ở tấm lòng, mà còn phải bộc phát ra cả trong hành động, trong cuộc sống.
3. Phải học thuần thục toàn bộ Thánh Kinh. Không dùng khôn ngoan riêng để đọc Kinh Thánh. Cũng không thuần chỉ dùng tri thức thần học để nghiên cứu Thánh Kinh. Nhưng Lời Chúa phải thực sự trở nên thức ăn để nuôi dưỡng và trở nên máu và thịt của chính mình. Cở thể xác thịt đã thành Đạo là Lời Chúa. Thuận phục theo thánh ý mà phân giải Lời Ngài.
4. Trong lúc cầu nguyện phải nghe được tiếng của Chúa, nhờ đó biết vâng phục sự hướng dẫn của Chúa qua lời Kinh Thánh. Gần gũi với Chúa để có sự tương giao thuộc linh. Mặt đối mặt với Chúa để nhận quyền năng Ngài để có thể chống trả quyền lực của Sa-tan.
5. Phải được thấm nhuần trọn vẹn Chúa Thánh Linh. Đôi chân được hướng dẫn chạy theo con đường vâng phụ. Đầu gối đầu phục, biết quì cầu nguyện không ngừng. Biết lấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời là niềm vui và hạnh phúc. Chiếc lưng thấm nhuần sự ngay thẳng làm chứng cho chân lý. Bàn tay vâng phục biết tuân hành ý chỉ của Chúa. Môi miệng được thấm nhuần có lời nói xuyên thấu lòng người. Đôi mắt được thấm nhuần Chúa Thánh Linh thì phân biệt được mọi sự. Lỗ tai thấm nhuần, nghe được tiếng phán êm dịu của Chúa. Mặt mày thấm nhuần Chúa Thánh Linh sáng rực như mặt thiên sứ. Đầu óc thấm nhuần Chúa Thánh Linh sẽ không còn thành kiến nào. Tấm lòng được thấm nhuần sẽ lấy lòng Chúa làm lòng mình. Toàn thân được thấm nhuần sẽ phản chiếu vinh quang đẹp đẽ của Đức Chúa Trời.
6. Phải có tấm lòng tràn đầy tình thương tha nhân, nhìn thấy con người đang bị hư vong thì lòng nóng cháy như thiêu đốt. Hãy bắt chước Chúa Cứu Thế liều mạng sống mình cho bằng hữu mình. Thà mất cả thế gian mà cứu được linh hồn con người. Sứ đồ Phao-lô đã xem việc truyền giảng Phúc âm như một món nợ phải trả: “Nếu không truyền bá Phúc âm là một tai họa cho tôi”.
7. Phải can đảm nêu cao thập tự của Chúa Cứu Thế, không cậy vào lý giải, chủng tộc hay luật pháp mà chia rẽ.
8. Cầu nguyện là một vấn đề thường xuyên và cấp bách, quyền năng lớn lao của Đức Chúa Trời được bày tỏ không khi nào tách rời khỏi sự cầu nguyện trên lầu cao. Người tín hữu được thấm nhuần. Nước Sống sẽ đương nhiên được biểu lộ ra nhiều ân tứ. Không có người dạy chân lý của Hội Thánh nhưng có sự khai mở Hội Thánh; Không có người đề xướng đi các phương trời xa để truyền bá Phúc âm, nhưng Phi-líp nghe được tiếng Chúa đi vào nơi đồng vắng để giảng dạy về Chúa Giê-su cho quan thái giám; Không có người đặt trọng tâm vào nói tiếng lạ, nhưng họ biết nói tiếng lạ; Không có người chỉ dạy khuôn mẫu của cuộc sống, nhưng họ biết sống yêu thương nhau; Không có người truyền dạy Phúc âm xã hội, nhưng họ biết cứu giúp cô nhi quả phụ; Không có người kêu gọi dâng hiến, đóng góp, nhưng họ đã bán cả gia sản để coi như của chung... Những ân tứ này đều dầy dẫy trong họ sau khi họ được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Có thể nói, tất cả những gì họ được từ trong Thánh Linh không tách rời khỏi sự đồng tâm khẩn thiết cầu nguyện trên lầu cao.
9. Vác thập tự giá cách nhẫn nhục và vui lòng. Với một tấm lòng chịu đựng gian khổ, không lấy Phúc âm làm điều xấu hổ cho mình. Bắt chước sự hy sinh của Chúa Cứu Thế. Không cầu danh lợi, chỉ xin được sống sung mãn trong Chúa Cứu Thế.
10. Nhìn biết được quỷ kế của Sa-tan, có khả năng phân biệt chân giả. Dám đứng vào những nơi hư nát của Hội Thánh để gánh vác những công việc khó khăn nhất, mạnh dạn bảo vệ chân lý sống.
11. Đầy dẫy lòng yêu thương, sẵn sàng hợp tác với những người đang hầu việc Chúa. Không tự xây cho mình một tháp Ba-bên. Không chia bè, lập phái. Những việc lấy làm tốt đẹp phải để ý mà làm. Không kể là việc của người này hay người nọ, chỉ cần Phúc âm của Chúa Cứu Thế được rao ra thì phải thấy lòng mãn nguyện. Phải đồng tâm hiệp ý cho Phúc âm được phát triển, số người được cứu gia tăng, cầu xin danh của Chúa được tôn vinh.
12. Tỉnh thức chờ đợi Chúa trở lại. Nhẫn nại giữ đạo Chúa trong cơn thử thách. Trong mọi hoàn cảnh đều phải biết ngợi khen Chúa. Trung tín cho đến chết.
Hỡi các anh chị em, tôi hằng cầu nguyện cho Hội Thánh trong nước và ngoài nước. Cầu xin Chúa đào tạo thật nhiều những con người phục vụ Chúa, những người đầy tớ đẹp lòng Chúa là 2 nhiệm vụ của tôi nhận lãnh từ nơi Chúa sau khi đã cầu nguyện hơn 100 ngày. Người Truyền đạo của Đức Chúa Trời nên tìm dịp đến những nơi thanh vắng để suy gẫm học hỏi Lời Chúa, sẽ thấy được những gì tôi đã thấy và sẽ được những gì Chúa muốn cho người đó được.
Đó là lời thuật lại của Tiến sĩ John Sung Tống Thượng Tiết đang nằm trong lòng Chúa. Ngày 24 tháng 10 năm 1941.
MỤC LỤC
Lời giới thiệu
Chương 1: Lời mở đầu 2
Chương 2: Sự tái sanh của Người Cha và Sự Đắc thắng 5
Chương 3: Người mẹ được tái sanh trong cơn Bạo bệnh 9
Chương 4: Thời thơ ấu, năm 1901-1909 11
Chương 5: Cuộc Phấn hưng tại Hưng Hóa 13
Chương 6: Mục sư Con, năm 1912-1913 16
Chương 7: Tống Đại đầu (to đầu) 18
Chương 8: Thời kỳ Trung học 1913-1917 20
Chương 9: Thời gian trước khi du học 22
Chương 10: Vượt Thái Bình Dương, 1919 26
Chương 11: Trước và sau khi và trường Đại học, 1919-1921 28
Chương 12: Trong cơn bạo bệnh và nghèo nàn, 1921 30
Chương 13: Khải tượng năm 1922 33
Chương 14: Tốt nghiệp Đại học trong vinh dự, năm 1923 37
Chương 15: Sau khi tốt nghiệp, mùa hè 1923 39
Chương 16: Bắt đầu thời kỳ hoạt động mạnh, năm 1924 43
Chương 17: Vừa giao tế vừa nghiên cứu, năm 1923-1926 47
Chương 18: Đậu Tiến sĩ, năm 1926 49
Chương 19: Vào Chủng viện Nữu Ước 52
Phần I: Tiến sĩ khoa học theo học Thần học 52
Phần II: Được một cô gái bắt phục 55
Chương 20: Tái sanh, ngày 10 tháng 2 năm 1927 59
Chương 21: Vào bệnh viện tâm thần (từ tháng 2 đến tháng 8, 1927) 63
Phần I: Khải thị 63
Phần II: Bệnh viện tâm thần 66
Phần III: Trước và sau khi xuất viện 69
Chương 22: Hành trình hồi hương, ngày 9 tháng 10, 1927 73
Chương 23: Về đến Hưng Hóa, tháng 11, 1927 76
Phần I; Về đến nhà (Hưng Hóa) 76
Phần II: Lập gia đình 78
Phần III: Bắt tay phục vụ Chúa 79
Chương 24: Hầu việc Chúa tại quê hương 83
Chương 25: Sự ràng buộc của Đức Chúa Trời, 1930 90
Chương 26: Lên miền Bắc, năm 1930-1931 94
Chương 27: Đến Hoa Bắc, năm 1930-1931 96
Chương 28: Từ Thượng Hải đến Nam Xương 101
Chương 29: Đêm khó quên tại Nam Xương, 5-3-1931 107
Chương 30: Từ Nam Tần – Thượng Hải & Ninh Ba, 1931 112
Chương 31: Cộng tác với Giáo hội Bê-tên, 1931 115
Chương 32: Trước và sau ngày truyền giảng tại Thượng Hải, 1931 118
Phần I: Từ Sơn Đông đến Thượng Hải 118
Phần II: Tai biến trên hành trình về Thanh Hóa 120
Chương 33: Lên miền Đông Bắc với Đoàn Truyền Giáo Phúc âm Bê-tên 124
Chương 34: Những mẫu chuyện tại Sơn Đông và Thượng Hải, cuối 1931 đến đầu 1932 136
Chương 35: Hành trình xuống Hoa Nam 141
Chương 36: Một mẫu chuyện tại sông Thượng Hải, 1932 152
Chương 37: Hành trình đi Hoa Bắc, 1932-1933 155
Phần I: Vùng Bắc Kinh và Thiên Tân 155
Phần II: Sơn Đông đến Hoa Nam 164
Chương 38: Thời kỳ cuối cùng hợp tác với Bê-tên, 1933-1934 174
Phần I: Hoa Bắc 174
Phần II: Đến tỉnh Hồ Nam 178
Chương 39: Chiến đấu một mình tại 5 tỉnh Trung Hoa, 1934 186
Chương 40: Đi đến đâu thắng đến đó, 9/1934-8/1935 196
Phần I: Từ Xoa Thô đến Phước Kiến 196
Phần II: Tại Triết Giang và Giang Tô 200
Phần III: Đi xuống miền Nam 202
Phần IV: Đi lên hướng Bắc 207
Phần V: Phi-luật-tân 209
Chương 41: Về miền Nam, năm 1935 213
Chương 42: Hành trình tại Duyên Hải và Đài Loan, 1935-1936 217
Phần I: Giang Tô, Hà Bắc, Sơn Tây, Thượng Hải 217
Phần II: Từ Hạ Môn đến Đài Loan 221
Phần III: Kinh Diên Thịnh Hội, Đại hội và Học Kinh Thánh 225
Chương 43: Xuống miền Nam lần thứ nhì, cuối 1936 232
Chương 44: Công tác trước đêm quốc gia đại nạn, đầu năm 1937 238
Phần I: Quảng Đông, Phước Kiến 238
Phần II: Giang Tô, Triết Giang, Hà Nam, Giang Tây – ngang qua Hạ Môn đến 243
Thượng Hải
Chương 45: Sự lao nhọc trong khói lửa chiến tranh hạ bán niên 1937 đến thượng 247
bán niên 1938
Phần I: Giang Tô, Triết Giang 247
Phần II: Sơn Đông 251
Phần III: Các tỉnh Thiểm Tây, Hà Nam 252
Phần IV: Phước Kiến 259
Chương 46: Việt Nam và Vân Nam, tháng 5-8, 1938 264
Chương 47: Thái Lan, Tân-gia-ba và Mã-lai, cuối 1938 273
Chương 48: Lần đầu tiên đến Java, mùa xuân 1939 279
Chương 49: Trở lại Thái Lan, mùa hè 1939 284
Chương 50: Lại đến Java, hạ bán niên 1939 288
Chương 51: Sắp lìa đời, 1940-1944 293
Phần I: Thượng Hải 293
Phần II: Tại Bắc Kinh 296
Chương 52: Lời bình phẩm 305
Chương 53: Lời tôn kính của Vương Minh Đạo 317
Phụ lục: Bài giảng luận (Lời nhắn nhủ của Tống Thượng Tiết) 324
Các bài khác
:: Ai lấy miếng Pho mát của tôi?
:: Nếu bắt đầu lại chức vụ
:: Lịch sử những bài thánh ca
:: Thánh Kinh phong tục
:: Truyện ngắn "Câu chuyện của một cụ già"
|
|