Cầu Nguyện Quyết Tin Chắc
Cầu nguyện không sợ hãi: cầu xin với lòng quyết chắc
by Anne Graham Lotz, from Storming the Gates of Heaven
Đa-ni-ên 2: 26
Có phải đức tin là một món quà mà một số người đã được trao và những người khác thì không? Không, đức tin do nơi quyền lựa chọn. Có một câu chuyện cũ, một câu chuyện yêu thích của tôi: Có một người đi trên dây thừng kỳ cựu, sau khi chứng minh rằng anh ta có thể đẩy một chiếc xe cút kít đầy cát qua thác Niagara trên dây thừng, đám đông vỗ tay, ông yêu cầu cho một tình nguyện viên. Không ai nhúc nhích. Cuối cùng, một ông già nhỏ bé ở phía sau giơ tay, bước về phía trước, và dạn dĩ nói: “Tôi đã thấy những gì bạn đã làm và tôi đã nghe những gì bạn nói. Tôi tin rằng bạn có thể đẩy tôi qua, vì vậy tôi sẽ nhận lời.
Mọi người trong đám đông nín thở và căng thẳng để nhìn xem chiếc xe cút kít đẩy ngang qua thác trở lại. Đến cuối cùng, tiếng của đám đông hoan hô to đến điếc tai, khi ông già từ xe cút kít bước ra. Người đi dây thăng bằng cúi đầu chào, nụ cười nở rộng và nói, cảm ơn, thưa ngài, vì ngài đã tin vào tôi.
Dĩ nhiên, điểm chính của câu chuyện là trong khi cả đám đông nói rằng họ tin người đi dây thăng bằng có thể chở một người qua thác nước trong xe cút kít của mình, nhưng chỉ có một ông già nhỏ bé thể hiện đức tin thực sự bằng cách leo lên xe cút kít đó. Đức tin thực sự không chỉ là lời nói hay nghi lễ, đi nhà thờ hay tin bằng cảm xúc rằng có một Thiên Chúa. Đức tin thực sự là lời nói đi đôi với hành động. (Gia-cơ 2:17)
Niềm tin của mình là sự lựa chọn.
Đa-ni-ên là hình ảnh của một người đã chứng minh niềm tin thực sự bằng sự lựa chọn của chính mình. Ông ta không chỉ nói rằng tôi tin, mà lời nói của ông đã được thực hiện bằng những hành động, bất chấp cái chết. Chúng ta không nói về nguồn gốc ban đầu ông ấy có đức tin, nhưng tất cả các dấu hiệu cho thấy những năm đầu ông ấy lớn lên ở Jerusalem. Những bước tiếp theo của ông khi còn là một thiếu niên, đức tin của ông dường như được phát triển rất tốt.
Hành động đầu tiên coi thường sự chết, Kinh Thánh ghi lại lúc ông đến kinh đô Ba-by-lôn dưới triều đại Vua Nê-bu-cát-nết-sa. Đa-ni-ên bị tước mất quá khứ bằng cách bị đổi tên từ Đa-ni-ên, tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “Đức Chúa Trời là quan xét của tôi” sang tên mới “Bên-tơ-sát-sa” tiếng Ba-by-lôn có nghĩa là “Con trai của thần Ba-anh”. Vua Nê-bu-cát-nết-sa còn đưa ra chế độ ăn uống làm cho trong sạch trí não kéo dài trong ba năm bằng đường lối của triều đình Ba-by-lôn. Dường như Đa-ni-ên cũng đang được chuẩn bị tiến cung bằng con đường làm hoạn quan, nên người quản lý chăm sóc cho ông là trưởng của các hoạn quan trong triều. Đa-ni-ên 1: 3. Điều này chắc chắn là có ý định buộc Đa-ni-ên vào một vị trí nhục nhã làm công cụ dưới chế độ Ba-by-lôn, phục vụ vua Nê-bu-các-nết-sa. Điều đáng nói là ông sẽ không còn có cuộc sống riêng tư nào hết.
Mặc dầu Đa-ni-ên không thể ngăn chặn được việc thay đổi tên họ, nhưng ông đã rút ra khỏi sự bắt buộc phải ăn thức ăn của Vua ban, sau khi đã dâng cúng cho thần tượng. Làm vậy chứng tỏ ông không đồng tình với cách mà người Ba-by-lôn tôn kính thần tượng. Để làm cho đức tin của mình mạnh mẽ ông quyết tâm từ chối đồ ăn đã dâng cúng thần tượng, ông không thế làm ô uế bản thân bằng rượu và đồ ăn ngon của vua ban. Ông đã từ chối và nói với người làm đầu hoạn quan “Đừng bắt ép mình phải tự làm ô uế.” Đa-ni-ên 1: 8.
Dầu cho Át-bê-na, Tổng quản các thái giám trong triều ra sức can ngăn, khuyên bảo ông đừng nên từ chối vì sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng, đặc biệt là với thực phẩm của vua ban. Đa-ni-ên có thể thưa với Chúa, con đã cố gắng vâng lời Chúa, Chúa biết lòng con không có chút gì tôn kính các thần tượng nầy, nhưng con cần phải sống để làm vinh hiển danh Chúa chứ! Nhưng Đa-ni-ên không lùi bước, không một chút nào sợ hãi.
Một khi đã quyết định chọn lựa đặt mình vào bàn tay của Đức Chúa Trời, ông không thể tự làm ô uế bản thân. Vì thế ông đã đưa ra lời thử thách với quan tổng quản thái giám như sau: Hãy đem cho chúng tôi những đồ ăn không có cúng tế thần của các ông, trong mười ngày nếu chúng tôi không khá hơn các người trẻ tuổi ăn uống đồ của vua ban cho thì ông cứ xử chúng tôi theo cách nào ông muốn. Đa-ni-ên 1: 11-13. Mười ngày sau quan tổng quản thái giám nhìn thấy một sự kiện lạ lùng, nét mặt họ đầy đặn và tươi tắn hơn các chàng trai trẻ ăn thức ăn ngon và uống rượu quý của vua ban cho. Vì vậy quan tổng quản thái giám cất đi phần đồ ăn ngon và rượu quý của vua ban cho họ. Ông đã cho họ ăn rau uống nước trong thời gian ba năm đó. Đến kỳ kiểm tra cuối cùng, Vua Nê-bu-cát-nết-sa đã chọn những chàng trai trẻ Hê-bơ-rơ này vì thấy họ khôn ngoan thông sáng hơn gấp mười lần những pháp sư, thuật sĩ trong cả đế quốc Ba-by-lôn.
Đa-ni-ên đã được Đức Chúa Trời rèn luyện:
Đức Chúa Trời đã đi xuyên qua đời sống của Đa-ni-ên theo cách ông tin nơi Chúa để được trưởng thành. Việc này thật tốt lành, vì tiếp theo sau đó đức tin của ông lại được thử nghiệm khi vua Nê-bu-cát-nết-sa gặp một giấc mơ khiến cho tinh thần ông hoảng loạn. Nhà vua đe dọa sẽ giết hết các nhà thông thái trong nước nếu không có ai nói ra được giấc mơ của vua và giải thích ý nghĩa của nó. Không một ai trong các cố vấn của nhà vua có thể làm được điều này nên vua đã ra lệnh giết chết tất cả các nhà thông thái.
Nhưng khi Đa-ni-ên hay biết điều ấy, ông đã đi thẳng vào gặp vua xin một thời hạn qua đêm để ông có thể trả lời cho vua biết. Điều này cho thấy từng trãi kinh nghiệm quyền năng của Đức Chúa Trời đối với Đa-ni-ên là có thật, một lần nữa Chúa đến với ông trong chiêm bao, đến sáng ông có thể nói lại giấc mơ của vua và giải thích ý nghĩa của nó rõ ràng. Khi Đa-ni-ên đến gặp, vua Nê-bu-cát-nết-sa vẫn còn hoài nghi nên ông đã hỏi: “Có thật ngươi có thể cho ta biết những gì ta thấy trong giấc mơ cùng với lời giải thích của ngươi hay không?” Đa-ni-ên 2: 26
Câu trả lời không hề sợ hãi mà còn rất cứng rắn của Đa-ni-ên cho thấy đức tin ông hoàn toàn tin vào Chúa khi đối đáp với vua như sau: “ Điều kín nhiệm mà vua đòi hỏi, những nhà thông thái, pháp sư, bói toán, thuật sĩ đều không thể tỏ cho vua được. Nhưng có một Đức Chúa Trời trên cao tỏ cho vua biết điều kín nhiệm này và cho vua biết điềm tương lai sắp tới…” Đa-ni-ên 2: 27-28. Rồi sau đó ông giải thích tất cả cho vua nghe. Nhà vua hết sức kinh ngạc! Nhưng điều quan trọng nhất là Đức Chúa Trời được tôn cao. Vua Nê-bu-cát-nết-sa đã nói lên điều này: “Đúng thật, Đức Chúa Trời của các ngươi là Chúa của các thần, Chúa của các vua. Chính Ngài đã tỏ ra những việc kín nhiệm, điều đó khiến cho ngươi có thể nói ra được sự kín nhiệm nầy.” Đa-ni-ên 2: 47. Sau đó Vua đã vinh danh cho Đa-ni-ên cai trị kinh đô Ba-by-lôn. Đa-ni-ên được trao cho ấn tín quyền lực cao nhất trong khắp cả đế quốc Ba-by-lôn dưới triều đại vua Đa-ri-út.
Đa-ri-út bổ nhiệm Đa-ni-ên làm một trong ba quan chức hàng đầu của mình. Riêng Đa-ni-ên đặc biệt đến nỗi Đa-ri-út dự định cất nhắc trở thành người chỉ huy thứ hai trên toàn bộ vương quyền sau vua. Những quan chức khác đã ghen tị và bắt đầu tìm cách hãm hại Đa-ni-ên với hy vọng tìm thấy điều gì đó mà họ có thể kết tội Đa-ni-ên trong mắt nhà vua. Họ không tìm thấy gì, ngoại trừ ba lần một ngày Đa-ni-ên đi vào phòng trên lầu, mở cửa sổ về hướng Jerusalem và cầu nguyện.
Những quan chức ganh tỵ đã đến gặp Đa-ri-út nói những lời tâng bốc và nịnh hót để vua ban hành một sắc lệnh rằng mọi người chỉ có thể cầu nguyện với vua, không được cầu nguyện với bất kể thần nào khác trong vòng một tháng. Ai bất tuân sẽ bị quăng vào hang sư tử cho sư tứ đói xé xác để chịu hình phạt.
Đa-ni-ên đã không nao núng. Như mọi khi, ông mở cửa sổ hướng về phía Jerusalem và tiếp tục cầu nguyện, ba lần một ngày. Chắc chắn, kẻ thù của ông đã quan sát rõ điều này và vui vẻ chạy một mạch đến báo cáo với nhà vua.
Đa-ri-út thực sự đau khổ vì ông rất có thiện cảm với Đa-ni-ên, nhưng luật pháp mà ông đã ký có hiệu lực, không thể hủy bỏ. Vì vậy, dầu cho Đa-ni-ên người của Thiên Chúa, người đã phục vụ Babylon và Ba Tư cách biệt đặc biệt như vậy vẫn bị ném vào hang sư tử. Chính nhà vua thốt ra một lời cầu nguyện: “Cầu xin Đức Chúa Trời ngươi, Đấng ngươi hằng hầu việc, sẽ giải cứu ngươi.” Đa-ni-ên 6: 16. Dường như chính nhà Vua đã chịu ảnh hưởng đức tin của Đa-ni-ên, một niềm tin không dựa vào chính mình mà vào thần quyền. Bời đức tin đó có ảnh hưởng lan truyền mạnh mẽ.
Đức tin sắt đá có ảnh hưởng lan truyền:
Suốt đêm hôm ấy, vua Đa-ri-út trằn trọc không ngủ được. Sáng sớm hôm sau vua đi đến hang sư tử và lấy giọng rầu rĩ mà kêu Đa-ni-ên; vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Hỡi Đa-ni-ên, tôi tớ Đức Chúa Trời hằng sống! Đức Chúa Trời ngươi mà ngươi hằng hầu việc có thể giải cứu ngươi khỏi sư tử được chăng? Bấy giờ Đa-ni-ên tâu cùng vua rằng: Hỡi vua, chúc vua sống đời đời! Đức Chúa Trời tôi đã sai thiên sứ Ngài, và bịt miệng các sư tử, nên chúng nó không làm hại chi đến tôi, bởi tôi đã được nhận là vô tội trước mặt Ngài. Hỡi vua, đối với vua cũng vậy, tôi chẳng từng làm hại gì. Nghe xong vua truyền lệnh đem Đa-ni-ên lên khỏi hang sư tử ngay lập tức. Đồng thời ông xử tử những kẻ đã hãm hại Đa-ni-ên bằng cách bắt cả gia đình của những quan chức này bỏ xuống hang sư tử. Sau đó vua Đa-ri-út đã ban hành một sắc lệnh cho toàn cả đế quốc Ba-by-lôn như sau: “Ta ban chiếu chỉ rằng, trong khắp các miền nước ta, người ta phải run rẩy kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên; vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và còn đời đời. Nước Ngài không bao giờ bị hủy diệt, và quyền thế Ngài sẽ còn đến cuối cùng.” Đa-ni-ên 6: 26.
Đức Chúa Trời đã được tôn cao! Danh Chúa được vinh hiển!
Chuyển ngữ: Mục sư Nguyễn Quốc Dũng
Các bài khác
:: CHỨNG NHÂN CHO NIỀM TIN
:: NỢ XẤU VÀ NỢ TỐT
:: ĐỜI SỐNG MỚI TRONG CHRIST
:: NIỀM TIN KHÔNG QUYẾT ĐỊNH BẰNG LỜI NÓI
:: HI VỌNG NƠI CHÚA
|